Đề Xuất 6/2023 # 1.7 Error Và Exceptions · Gitbook # Top 13 Like | Cuocthitainang2010.com

Đề Xuất 6/2023 # 1.7 Error Và Exceptions · Gitbook # Top 13 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về 1.7 Error Và Exceptions · Gitbook mới nhất trên website Cuocthitainang2010.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

1.7. Error và Exceptions

1.7.1. Ngữ cảnh thường gặp

Có một số hàm trong chương trình luôn yêu cầu phải chạy thành công. Ví dụ strconv.Itoa chuyển một số nguyên thành string, đọc và ghi phần tử từ array hoặc slice, đọc một phần tử tồn tại trong map và tương tự.

Những tác vụ như thế sẽ khó để có lỗi trong thời gian chạy trừ phi có bug trong chương trình hoặc những tình huống không thể đoán trước được như là memory leak tại thời điểm chạy. Nếu bạn thực sự bắt gặp một tình huống khác thường như thế, chương trình sẽ ngừng thực thi.

Khi một chương trình bị lỗi và dừng, chúng ta có thể cân nhắc một số khả năng xảy ra. Đối với các hàm xử lý lỗi tốt, nó sẽ trả về thêm một giá trị phụ, thường thì giá trị này được dùng để chứa thông điệp lỗi. Nếu chỉ có một lý do dẫn đến lỗi, giá trị thêm vào này có thể là một biến Boolean, thường đặt tên là ok. Ví dụ như bên dưới :

if

v, ok := m[

"key"

]; ok {

return

v }

Nhưng thông thường sẽ có nhiều hơn một nguyên nhân gây ra lỗi, và nhiều khi user muốn biết nhiều thêm về lỗi đó. Nếu bạn chỉ sử dụng một biến boolean, thì bạn sẽ không giải quyết được yêu cầu trên. Trong ngôn ngữ C, một số nguyên errno được sử dụng mặc định để thể hiện lỗi, do đó bạn có thể định nghĩa nhiều loại error theo nhu cầu. Trong ngôn ngữ Go, có thể gọi syscall.Errno giống như với mã lỗi errno trong ngôn ngữ C.

Ví dụ, khi chúng ta dùng syscall.Chmod để thay đổi mode của một file, chúng ta có thể thấy thông tin về lỗi qua biến err như bên dưới :

err := syscall.Chmod(

":invalid path:"

,

0666

)

if

err !=

nil

{ log.Fatal(err.(syscall.Errno)) }

Nếu một interface đơn giản ném tất cả những lỗi thông thường như là một ngoại lệ, chúng sẽ làm thông báo lỗi lộn xộn và không có giá trị. Như main trực tiếp bao gồm mọi thứ trong một hàm, nó không mang lại ý nghĩa gì.

func

main() {

defer

func

() {

if

r :=

recover

(); r !=

nil

{ log.Fatal(r) } }() }

Bao bọc một mã lỗi không phải là một kết quả cuối cùng. Nếu một ngoại lệ không thể đoán trước được, trực tiếp gây ra một ngoại lệ là một cách tốt nhất để xử lý chúng.

1.7.2. Chiến lược xử lý lỗi

Hãy minh họa cho ví dụ về sao chép file: một hàm cần phải mở hai file và sau đó sao chép toàn bộ nội dung của một file nào đó về một file khác.

func

CopyFile(dstName, srcName

string

) (written

int64

, err error) { src, err := os.Open(srcName)

if

err !=

nil

{

return

} dst, err := os.Create(dstName)

if

err !=

nil

{

return

} written, err = io.Copy(dst, src) dst.Close() src.Close()

return

}

Khi đoạn code trên chạy, sẽ tìm ẩn rủi ro. Nếu đầu tiên os.Open gọi thành công, nhưng lệnh gọi thứ hai os.Create gọi bị failed, nó sẽ trả về ngay lặp tức mà không giải phóng tài nguyên file.

Mặc dù chúng ta có thể fix bug bằng việc gọi src.Close() trước lệnh return về mệnh đề return thứ hai; nhưng khi code trở nên phức tạp hơn, những vấn đề tương tự sẽ khó để tìm thấy và giải quyết. Chúng ta có thể sử dụng mệnh đề defer để đảm bảo rằng một file bình thường khi được mở cũng sẽ được đóng.

func

CopyFile(dstName, srcName

string

) (written

int64

, err error) { src, err := os.Open(srcName)

if

err !=

nil

{

return

}

defer

src.Close() dst, err := os.Create(dstName)

if

err !=

nil

{

return

}

defer

dst.Close()

return

io.Copy(dst, src) }

Mệnh đề defer được thực thi khi ra khỏi tầm vực của hàm, chúng ta nghĩ về làm cách nào để đóng một file ngay khi mở file đó. Bất kể làm thế nào hàm được trả về, bởi về mệnh đề close có thể luôn luôn được thực thi. Cùng một thời điểm, mệnh đề defer sẽ đảm bảo rằng io.Copy file có thể được đóng an toàn nếu một ngoại lệ xảy ra.

Như chúng ta đã đề cập trước đó, hàm export trong ngôn ngữ Go sẽ thông thường ném ra một ngoại lệ, và một ngoại lệ không được kiểm soát có thể xem là một bug trong một chương trình. Nhưng với những framework Web services, chúng thường cần sự truy cập từ bên thứ ba ở middleware.

Bởi vì thư viện middleware thứ ba có bug, khi mà một ngoại lệ ném một exception, web framework bản thân nó không chắc chắn. Để cải thiện sự bền vững của hệ thống, web framework thường thu hồi chính xác nhất có thể những ngoại lệ trong luồng thực thi của chương trình và sau đó sẽ gây exception về bằng cách return error thông thường.

Chúng ta hãy xem JSON parse là một ví dụ minh họa cho việc dùng ngữ cảnh của việc phục hồi. Cho một hệ thống JSON parser phức tạp, mặc dù một ngôn ngữ parse có thể làm việc một cách phù hợp, có một điều không chắc chắn rằng nó không có lỗ hỏng. Do đó, khi một ngoại lệ xảy ra, chúng ta sẽ không chọn cách crash parser. Thay vì thế chúng ta sẽ làm việc với ngoại lệ panic nhưng là một lỗi parsing thông thường và đính kèm chúng với một thông tin thêm để thông báo cho user biết mà báo cáo lỗi.

func

ParseJSON(input

string

) (s *Syntax, err error) {

defer

func

() {

if

p :=

recover

(); p !=

nil

{ err = fmt.Errorf(

"JSON: internal error: %v"

, p) } }() }

Gói json trong một thư viện chuẩn, nếu chúng gặp phải một error khi đệ quy parsing dữ liệu JSON bên trong, chúng sẽ nhanh chóng nhảy về mức cao nhất ở phía ngoài, và sau đó sẽ trả về thông điệp lỗi tương ứng.

Ngôn ngữ Go có cách hiện thực thư viện như vậy; mặc dù sử dụng package panic, chúng sẽ có thể được chuyển đổi đến một giá trị lỗi cụ thể khi một hàm được export.

1.7.3. Trường hợp dẫn đến lỗi sai

Thỉnh thoảng rất dễ cho những upper user hiểu rằng bên dưới sự hiện thực sẽ đóng gói lại error như là một loại error mới và trả kết quả về cho user.

if

_, err := html.Parse(resp.Body); err !=

nil

{

return

nil

, fmt.Errorf(

"parsing %s as HTML: %v"

, url,err) }

Khi một upper user bắt gặp một lỗi, nó có thể dễ dàng để hiểu rằng lỗi đó được gây ra trong thời gian chạy từ cấp business. Nhưng rất khó để có cả hai. Khi một upper user nhận được một sai sót mới, chúng ta cũng mất những error type bên dưới (chỉ những thông tin về mô tả sẽ bị mất).

Để ghi nhận thông tin về kiểu lỗi, chúng ta thông thường sẽ định nghĩa một hàm WrapError chúng bọc lấy lỗi gốc. Để tạo điều kiện cho những vấn đề như vậy, và để ghi nhận lại trạng thái của hàm khi một lỗi xảy ra, chúng ta sẽ muốn lưu trữ toàn bộ thông tin về hàm thực thi khi một lỗi xảy ra. Lúc này, để hỗ trợ transition như là RPC, chúng ta cần phải serialize error thành những dữ liệu tương tự như định dạng JSON, và sau đó khôi phục lại err từ việc decoding dữ liệu.

Để làm việc đó, chúng ta sẽ phải tự định nghĩa cấu trúc lỗi riêng ví dụ như chúng tôi với những kiểu cơ bản sau:

type

Error

interface

{ Caller() []CallerInfo Wraped() []error Code()

int

error private() }

type

CallerInfo

struct

{ FuncName

string

FileName

string

FileLine

int

}

Trong số những Error, interface error là một mở rộng của kiểu interface, nó sẽ được dùng để thêm thông tin lời gọi hàm vào call stack, và hỗi trợ wrong muti-level gói lồng và hỗ trợ định dạng code. Cho tính dễ sử dụng, chúng ta có thể định nghĩa một số hàm giúp ích như sau:

func

New(msg

string

) error

func

NewWithCode(code

int

, msg

string

) error

func

Wrap(err error, msg

string

) error

func

WrapWithCode(code

int

, err error, msg

string

) error

func

FromJson(json

string

) (Error, error)

func

ToJson(err error)

string

New dùng để tạo ra một loại error mới tương tự như errors.New trong thư viện chuẩn, nhưng với việc thêm vào thông tin gọi hàm tại thời điểm gây ra error. FromJson được dùng để khôi phục một kiểu đối tượng error từ chuỗi JSON. NewWithCode nó cũng gây dựng một error với một mã error, chúng cũng có thể chứa thông tin về gọi hàm call stack. Wrap và WrapWithCode là một hàm error secondary wrapper chúng sẽ gói error như là một error mới, nhưng sẽ giữ lại message error gốc. Đối tượng error sẽ trả về từ đây và có thể trực tiếp gọi json.Marshal để encode error như là JSON string.

Chúng ta có thể sử dụng wrapper function như sau:

import

(

"github.com/chai2010/errors"

)

func

loadConfig() error { _, err := ioutil.ReadFile(

"/path/to/file"

)

if

err !=

nil

{

return

errors.Wrap(err,

"read failed"

) } }

func

setup() error { err := loadConfig()

if

err !=

nil

{

return

errors.Wrap(err,

"invalid config"

) } }

func

main() {

if

err := setup(); err !=

nil

{ log.Fatal(err) } }

Ở ví dụ trên, error sẽ được bao bọc trong hai lớp. chúng ta có thể duyệt quy trình đóng gói và bỏ qua.

for

i, e :=

range

err.(errors.Error).Wraped() { fmt.Printf(

"wraped(%d): %vn"

, i, e) }

Chúng ta có thể lấy thông tin gọi hàm cho mỗi wrapper error:

for

i, x :=

range

err.(errors.Error).Caller() { fmt.Printf(

"caller:%d: %sn"

, i, x.FuncName) }

Nếu chúng ta cần truyền một error thông qua network. chúng ta có thể encode errors.ToJson(err) như là JSON string.

func

sendError(ch

chan

<-

string

, err error) { ch <- errors.ToJson(err) }

func

recvError(ch <-

chan

string

) error { p, err := errors.FromJson(<-ch)

if

err !=

nil

{ log.Fatal(err) }

return

p }

Cho web service dựa trên http protocol, chúng ta cũng có thể kết hợp trạng thái http với error.

err := errors.NewWithCode(

404

,

"http error code"

) fmt.Println(err) fmt.Println(err.(errors.Error).Code())

Trong ngôn ngữ Go, error handling cũng có một coding style duy nhất. Sau khi kiểm tra nếu chức năng phụ bị failed, chúng ta thường đặt logic code tại sao chúng failed vào process trước khi code process thành công. Nếu một error gây ra function return, sau đó logic code về thành công sẽ không được đặt trên mệnh đề else, nó nên được đặt trực tiếp trong body của function.

f, err := os.Open(

"filename.ext"

)

if

err !=

nil

{ }

Cấu trúc code của hầu hết các hàm trong ngôn ngữ Go cũng tương tự, bắt đầu bới một chuỗi khởi tạo việc kiểm tra để ngăn chặn lỗi xảy ra, theo sau bởi những logic thực sự trong function.

1.7.4. Trả về kết quả sai

Error trong ngôn ngữ Go là một kiểu interface. Thông tin về interface sẽ chứa kiểu dữ liệu nguyên mẫu, và kiểu dữ liệu gốc. Giá trị của interface chỉ tương ứng nếu như cả kiểu interface và giá trị gốc cả hai đều empty nil. Thực tế, khi kiểu của interface là empty, kiểu gốc sẽ tương ứng với interface sẽ không cần thiết phải empty.

Ví dụ sau, tôi thử cố gắng trả về một custom error type và trả về chỉ khi không có errors nil:

func

returnsError() error {

var

p *MyError =

nil

if

bad() { p = ErrBad }

return

p }

func

returnsError() error {

if

bad() {

return

(*MyError)(err) }

return

nil

}

Do đó, khi đối mặt với giá trị error được return về, giá trị error return sẽ thích hợp khi được gán trực tiếp thành nil.

Ngôn ngữ Go sẽ có một kiểu dữ liệu mạnh, và cụ thể chuyển đổi sẽ được thực hiện giữa những kiểu khác nhau (và sẽ phải bên dưới cùng kiểu dữ liệu). Tuy nhiên, interface là một ngoại lệ của ngôn ngữ Go: non-interface kiểu đến kiểu interface, hoặc chuyển đổi từ interface type là cụ thể. Nó cũng sẽ hỗ trợ ducktype, dĩ nhiên, chúng sẽ thỏa mãn cấp độ 3 về bảo mật.

1.7.5. Phân tích ngoại lệ

Panic được hỗ trợ để ném ra một kiểu ngoại lệ tùy ý (không chỉ là kiểu error), recover sẽ trả về một giá trị của lời gọi hàm và panic cũng như thông tin về kiểu tham số của hàm và những nguyên mẫu của hàm sẽ như sau:

func

panic

(

interface

{})

func

recover

()

interface

{}

Luồng thông thường trong ngôn ngữ Go là kết quả trả về của việc thực thi lệnh return. Đó không phải là một exception trong luồng, do đó luồng thực thi của ngoại lệ recover sẽ catch function trong process sẽ luôn luôn trả về nil. Cái khác là ngoại lệ exception. Khi một lời gọi panic sẽ ném ra một ngoại lệ, function sẽ kết thúc việc thực thi lệnh con, nhưng vì lời gọi registered defer sẽ vấn được thực thi một cách bình thường và sau đó trả về caller. Caller trong hàm hiện tại, bởi vì trạng thái xử lý ngoại lệ chưa được bắt, panic sẽ tương tự như hành vi gọi hàm một cách trực tiếp. Khi một ngoại lệ xảy ra, nếu defer được thực thi lời gọi recover, nó có thể được bắt bằng việc trigger tham số panic, và trả về luồng thực thi bình thường.

defer sẽ thực hiện lệnh gọi recover nó thường gây khó khăn cho những người mới bắt đầu.

func

main() {

if

r :=

recover

(); r !=

nil

{ log.Fatal(r) }

panic

(

123

)

if

r :=

recover

(); r !=

nil

{ log.Fatal(r) } }

Cả hai lời gọi trên không có thể catch exceptions. Khi lời gọi recover đầu tiên được thực thi, hàm sẽ phải được trong một thứ tự thực thi bình thường, tại một điểm mà recover có thể trả về nil. Khi mà một exception xảy ra, lời gọi recover thứ hai sẽ không làm thay đổi việc thực thi, bởi vị lệnh gọi panic sẽ gây ra defer hàm sẽ trả về ngay lặp tức sau khi thực thi registered function.

Trong thực tế, hàm recover sẽ có những yêu cầu nghiêm ngặt: chúng ta phải gọi lệnh defer để gọi chúng một cách trực tiếp từ hàm recover. Nếu hàm wrapper defer được gọi, recover sẽ catchup ngoại lệ sẽ bị fail. Ví dụ, thông thường chúng ta sẽ muốn gói hàm MyRecover và thêm những log cần thiết những thông tin bên trong, và sau đó gọi hàm recover. Đây là một hướng tiếp cận sai.

func

main() {

defer

func

() {

if

r := MyRecover(); r !=

nil

{ fmt.Println(r) } }()

panic

(

1

) }

func

MyRecover()

interface

{} { log.Println(

"trace..."

)

return

recover

() }

Một cách tương tự, nếu chúng ta gọi defer trong hàm nested, recover sẽ cũng sẽ gây ra một ngoại lệ có thể được bắt.

func

main() {

defer

func

() {

defer

func

() {

if

r :=

recover

(); r !=

nil

{ fmt.Println(r) } }() }()

panic

(

1

) }

defer sẽ trực tiếp gọi two level nested function giống như wrapper function recover ở lớp một defer function. MyRecover là hàm trực tiếp trong statement sẽ work again.

func

MyRecover()

interface

{} {

return

recover

() }

func

main() {

defer

MyRecover()

panic

(

1

) }

Tuy nhiên, nếu defer statement trực tiếp gọi hàm recover, thì ngoại lệ sẽ không được bắt một cách phù hợp.

func

main(){

defer

recover

()

panic

(

1

) }

Nó sẽ phải tách biệt từ stack frame với một ngoại lệ bởi stack frame, do đó hàm recover sẽ có thể ném một ngoại lệ một cách bình thường. Hay nói cách khác, hàm recover sẽ bắt ngoại lệ của mức trên gọi hàm stack frame (chỉ là một layer defer function).

Dĩ nhiên, để tránh việc gọi recover không nhận ra được ngoại lệ, chúng ta nên tránh ném ra ngoại lệ nil như là một tham số.

func

main() {

defer

func

() {

if

r :=

recover

(); r !=

nil

{ ... } }()

panic

(

nil

) }

Khi chúng ta muốn trả về việc ném ngoại lệ vào error, nếu chúng ta muốn trung thành trả về thông tin gốc, bạn sẽ phải cần sử lý chúng một cách rời rạc cho những kiểu khác nhau.

func

foo() (err error) {

defer

func

() {

if

r :=

recover

(); r !=

nil

{

switch

x := r.(

type

) {

case

string

: err = errors.New(x)

case

error: err = x

default

: err = fmt.Errorf(

"Unknown panic: %v"

, r) } } }()

panic

(

"TODO"

) }

Dựa trên mẫu code trên, chúng ta có thể mô phỏng nhiều kiểu exception. Bởi việc định nghĩa những kiểu khác nhau của việc bảo vệ interface, chúng ta có thể phân biệt kiểu của ngoại lệ.

func

main {

defer

func

() {

if

r :=

recover

(); r !=

nil

{

switch

x := r.(

type

) {

case

runtime.Error:

case

error:

default

: } } }() }

Nhưng làm như vậy sẽ đi ngược lại với triết lý lập trình đơn giản và dễ hiểu của Go.

Liên kết

Phân Biệt “Fault”, “Mistake”, “Error” Và “Defect”

“Fault”- / fɔ:lt/ : khiếm khuyết hoặc thiếu sót, lỗi lầm, khuyết điểm.

Dùng khi nói về trách nhiệm của ai đó khi làm sai hoặc khi nói về những khuyết điểm thuộc về tính cách của ai đó.

Ví dụ: It was not his fault that his team lost the match.

( Đó không phải lỗi của anh ấy khi đội anh ấy thua trận đấu)

I like him despite his faults.

( Tôi thích ông ấy dù những khuyết điểm của ông ấy)

There is a fault in the electrical system.

( Có một chỗ hỏng trong hệ thống điện)

“Mistake – /mis’teik/: lỗi, sai lầm, lỗi lầm.

Nói về một hành động hoặc một ý nghĩa sai lầm, đem lại một kết quả không như mong muốn ( chủ yếu được thực hiện bởi một người)

“Make a mistake”/ “make mistakes”: phạm sai lầm

“by mistake”: do nhầm lẫn.

“and no mistake”: không còn nghi ngờ gì nữa

“to learn by one’s mistake”: học hỏi qua sai lầm của ai

Ví dụ:  It’s hot today and no mistake.

( Không còn nghi ngờ gì nữa trời hôm nay nóng)

The waiter made a mistake over the bill.

( Người phục vụ bàn có một chỗ nhầm lẫn trong hóa đơn)

You can’t arrest me! There must be some mistake!

( Các người không được bắt tôi! Chắc chắn là có sự nhầm lẫn rồi)

“Error” – / ‘erə/: sự sai lầm, sự sai sót, lỗi.

Mang sắc thái trang trọng hơn so với “Mistake” và được dùng khi lỗi đó gây ra vấn đề hoặc ảnh hưởng đến một thứ khác.

Thường được sử dụng trong các văn bản khoa học.

“make an error”: phạm sai lầm.

Ví dụ: The essay contains a number of typing errors.

( Bài tiểu luận chứa một số lỗi đánh máy)

The letter was sent to you in error.

( Bức thư bị gửi nhầm đến anh)

“Error” và “Mistake” cùng để chỉ một hành động sai lầm do sự đánh giá kém, hoặc thiếu hiểu biết, hoặc bất cẩn. Tuy nhiên, “Error” có tính nghiêm trọng hơn, dùng trong trường hợp tính toán sai lầm hoặc phán đoán sai. Còn “mistake” nhẹ hơn, những người bình thường ai cũng có thể mắc phải “mistake” và “mistake” được dùng nhiều hơn trong ngữ cảnh hàng ngày.

“Defect” – / di’fekt/ : khuyết điểm, nhược điểm.

Dùng để nói về những sai sót, hỏng hóc khiếm khuyết trong quá trình 1 thứ gì đó được tạo ra.

Ví dụ: There are defects in our educational system.

(Hệ thống giáo dục của chúng ta có nhiều khuyết điểm)

So Sánh Hiệu Năng Giữa Windows 10, Windows 8.1 Và Windows 7 (P1)

Ngay từ những phiên bản thử nghiệm, Windows 10 cho thấy được một hiệu suất làm việc tương đối nhanh và ổn định. Bản thân phiên bản đó cũng đã được so sánh với Windows 8.1 và Windows 7, song, kết quả cho ra không thực sự chính xác bởi nhiều chuyên gia cho rằng cần phải chờ đợi bản chính thức được ra mắt.

Cho đến thời điểm này, Windows 10 đã xuất hiện trên thị trường với 1 bản cập nhật lớn, cải thiện về hiệu năng, khả năng bảo mật cũng như vá các lỗi còn tồn tại. Trang Techspot đã thực hiện so sánh giữa ba nền tảng máy tính phổ biến nhất hiện nay.

Các bài thử nghiệm bao gồm thời gian khởi động, tắt máy, sao chép tập tin, encoding, chơi game và một số phần mềm benchmark tổng hợp. Để đảm bảo tính khách quan cũng như công bằng, tất cả các bài thử nghiệm được thực hiện trên một cấu hình hệ thống và điểm khác biệt duy nhất chính là hệ điều hành.

Thời gian khởi động, sleep và hibernate

Techspot sử dụng BootRacer để có thể đo thời gian Windows khởi động. Windows 8.1 dẫn đầu với 4 giây, tiếp đó là Windows 7 với 5 giây và cuối cùng là Windows 10 với 6 giây.

Tiếp theo là khả năng phục hồi lại trạng thái hoạt động sau khi đã hệ thống đã “ngủ” một thời gian dài. Ở bài thử nghiệm này, Windows 10 thể hiện tốt hơn với 10s, Windows 8.1 là 12s, còn sự thất vọng mang tên Windows 7 với 17s.

Cuối cùng là thử nghiệm thức dậy sau trạng thái “ngủ đông” (Hibernation). Windows 10 chỉ mất 21s, Windows 8.1 mất 23s và Windows 7 là 27s.

Các ứng dụng benchmark tiêu chuẩn

Cinebench R15

Cinebench R15 thường có biên độ lỗi khoảng 5%, mặc dù tác động này không đáng kể trên các nền tảng khác nhau. Dựa trên kết quả, Windows 10 nhanh hơn 7% so với Windows 7 và chỉ 2% so với Windows 8.1.

Futuremark PCMark 7

Điều bất ngờ đã xảy ra khi đo tổng thể hệ thống bằng PCMark 7 khi Windows 10 dẫn đầu với số điểm vượt trội 7101, nhiều hơn 600 điểm so với Windows 8.1. Trong khi đó điểm số Windows 7 tỏ ra ngang ngửa với Windows 8.1, mức chênh lệch chỉ 100 điểm mà thôi.

Ngoài ra việc phát và giải mã video trên Windows 10 có hiệu suất cao hơn rất nhiều so với thế hệ cụ. Tốc độ nhanh gần gấp 2 lần.

3D Particle Movement

Ở bài thử nghiệm này, cả ba đều cho ra kết quả khá tương đồng và sự chênh lệch không thực sự đáng kể.

Hiệu suất ứng dụng

Windows 10 cung cấp hiệu suất tương đương với Windows 7 trong Exel 2013, trong khi đó Windows 8.1 lại tỏ ra “đuối” hơn một chút.

Trình duyệt Firefox chạy chậm hơn trong Windows 10 khi so sánh với hai nền tảng đi trước, chậm hơn khoảng 7%.

Windows 10 và Windows 8.1 lại chậm hơn Windows 7 khi sử dụng Google Chrome

Trình duyệt Edge đã cho thấy sức mạnh của mình nhờ rất nhiều thay đổi so với Internet Explorer 11.

Hiệu suất đơn luồng và đa luồng trên Windows 10 đều kém hơn Win 8.1 và Win7

Hiệu suất sử dụng Photoshop CC tốt nhất với Windows 8.1, trong khi đó Windows 7 tương đồng với Windows 10.

Hiệu suất sử dụng Illustrator CC là ngang bằng giữa ba nền tảng.

Cũng giống như WinRAR, hiệu suất dụng 7-zip trên Windows 10 chậm hơn so với 8.1 và 7

Microsoft đã thực sự thành công với Windows 10?

(Techz.vn) 25 triệu người dùng là con số đầy “triển vọng” mà Microsoft đạt được sau hơn một tuần ra mắt phiên bản Windows 10 chính thức.rn

Mistake Vs Fault Vs Error Vs Blunder

MISTAKE, BLUNDER, FAULT and mean something done incorrectly or improperly. Các từ này đều là danh từ và có nghĩa là “lỗi, sai lầm”. Tuy nhiên giữa chúng có sự khác biệt:

1. Cách sử dụng FAULT

Fault: dùng khi nói về trách nhiệm của 1 ai đó khi làm sai hoặc khi nói về những khuyết điểm thuộc về tính cách của 1 người nào đó. implies that you are talking about culpability or responsibility.

It will be your own fault if you don’t pass the exam. (Nếu bạn không qua kỳ thi này, đó là lỗi của bạn).

It was not his that his team lost the match.

It was my that there was an error in the computer program.

It’s not my fault he’s late. Don’t blame me. (Cậu ta muộn không phải do lỗi của mình. Đừng khiển trách mình).

She has her faults, but, on the whole, she’s a nice person. (Cô ta có những điểm thiếu sót, nhưng nhìn chung cô ấy là người tốt).

A mechanical fault caused the train to come off the rails. (Sự cố về máy móc đã làm cho chuyến tàu trật khỏi đường ray).

2. Cách sử dụng từ MISTAKE

Mistake: nói về 1 hành động hay 1 ý nghĩ sai lầm và đem lại kết quả không mong muốn. Đặc biệt là có những kết từ với “mistake” như: make a mistake/make mistakes (phạm phải sai lầm), by mistake (do nhầm lẫn). MISTAKE is the most general term used of everyday situation.

Waiter! I think you’ve made a mistake over the bill.

It was a big mistake to leave your umbrella at home.

Coming to this place was a big mistake. We only wasted our time.

It was a mistake to go there on Sunday.

I committed a mistake of leaving our bedroom window open.

3. Cách sử dụng từ ERROR

Error: trang trọng hơn “mistake”, và đặc biệt được dùng khi lỗi đó gây ra vấn đề hoặc ảnh hưởng đến 1 thứ khác. is more suitable for more formal contexts. Some may consider ‘ error’ to be much more severe than ‘mistake’.

và mistake là những từ đồng nghĩa, cùng để chỉ một hành động sai lầm do sự đánh giá kém, hoặc thiếu hiểu biết, hoặc bất cẩn.

ám chỉ một sai trái về mặt đạo đức, còn mistake ám chỉ sự đánh giá sai.

Error là một từ có tính cách trang trọng hơn.

Ví dụ về cách dùng từ ERROR:

The grammatical errors in this Book could not be ignored.

The essay contains a number of typing errors.

The computer produced an error when the data was incorrect.

His speech contained several factual errors.

I made an error in my calculations.

The telephone bill was too far high due to a computer . (Hóa đơn điện thoại cao hơn hẳn là do lỗi của máy tính.)

The computer gave me a 404 error.

Your work is full of spelling mistakes /errors. Bài làm của bạn đầy những lỗi chính tả. (có tính cách trang trọng hơn thì dùng errors).

4. Khi nào dùng DEFECT?

Defect: nói về những sai sót, hỏng hóc, khiếm khuyết trong quá trình 1 thứ gì đó được tạo ra.

There are defects in our educational system. (Hệ thống giáo dục của chúng ta có những khuyết điểm.)

There are serious defects in our management system. (Hệ thống quản lý của chúng ta có những khuyết điểm nghiêm trọng).

5. Cách sử dụng từ BLUNDER

Bạn đang đọc nội dung bài viết 1.7 Error Và Exceptions · Gitbook trên website Cuocthitainang2010.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!