Đề Xuất 6/2023 # Khái Niệm Về Phương Pháp Dạy Học # Top 8 Like | Cuocthitainang2010.com

Đề Xuất 6/2023 # Khái Niệm Về Phương Pháp Dạy Học # Top 8 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Khái Niệm Về Phương Pháp Dạy Học mới nhất trên website Cuocthitainang2010.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Đọc, so sánh và rút ra kiến thức cần thiết

Khái niệm “phương pháp dạy-học “: Phương pháp dạy học là những cách thức làm việc giữa thầy giáo và học sinh, nhờ đó mà học sinh nắm vững được kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, hình thành được thế giới quan và năng lực.

Khái niệm thủ pháp dạy học: Thủ pháp dạy học là cách thức giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó thuộc một phương pháp nhất định hay nói khác đi, thủ pháp chính là thao tác bộ phận của một phương pháp.

Đọc khái niệm “phương pháp” và “thủ pháp” trên. Theo anh (chị), ranh giới giữa hai khái niệm này có tuyệt đối không?

Ranh giới giữa hai khái niệm “phương pháp” và “thủ pháp” chỉ mang tính tương đối. So với khái niệm “phương pháp”, khái niệm “thủ pháp” hẹp hơn. Mối quan hệ giữa phương pháp và thủ pháp có thể tạm so sánh với cách hiểu về chiến lược và chiến thuật trong khoa học quân sự. Nếu phương pháp chú ý tới cả quá trình thì thủ pháp là việc chú ý chủ yếu tới một thời điểm nhất định nào đấy trong quá trình đó.

Mở rộng kiến thức về khái niệm phương pháp dạy học

Cho đến nay vẫn chưa có được một định nghĩa thống nhất. Có quan niệm cho rằng “Phương pháp dạy học là những cách thức làm việc giữa thầy giáo và học sinh, nhờ đó mà học sinh nắm vững được kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, hình thành được thế giới quan và năng lực”. Cũng có quan niệm cho rằng ” Phương pháp dạy-học là những hình thức kết hợp hoạt động của giáo viên và học sinh hướng vào việc đạt một mục đích nào đó “. Nhìn chung, cách hiểu thứ nhất được nhiều người tán thành nhưng cách hiểu về hai chữ “cách thức” lại rất khác nhau nên kết quả cũng có nhiều hệ thống phương pháp khác nhau. Để không hiểu sai khái niệm phương pháp dạy-học cần chú ý phân biệt với các khái niệm: phương pháp luận, môn học phương pháp, thủ pháp dạy học, hình thức dạy học .

a)K hái niệm phương pháp luận được hiểu ở hai phương diện cơ bản:

· Phương diện thứ nhất, phương pháp luận được hiểu là học thuyết về phương pháp khoa học nói chung và với ý nghĩa này, phương pháp luận chính là triết học Mác-Lê nin.

· Phương diện thứ hai, phương pháp luận được hiểu là sự tổng hợp những cách thức, những phương pháp tìm tòi có ý nghĩa như những tư tưởng chỉ đạo, những tiền đề lí luận về phương pháp nghiên cứu trong một ngành khoa học nào đó.

b)K hái niệm phương pháp với tư cách là một môn học thường được hiểu là bộ môn chuyên nghiên cứu quá trình dạy – học một môn học nào đó, bao gồm việc nghiên cứu đối tượng, nhiệm vụ, mục tiêu của môn học, các cơ sở khoa học, các nguyên tắc của việc xây dựng chương trình môn học, những cách thức thiết kế và tổ chức quá trình dạy học các đơn vị kiến thức của môn học (chẳng hạn phương pháp dạy học văn học, phương pháp dạy học tiếng Việt)…

c)Khái niệm thủ pháp dạy học trên một ý nghĩa nào đó được hiểu là sự thể hiện cụ thể của phương pháp hay nói khác đi, thủ pháp chính là thao tác bộ phận của một phương pháp nhất định. Thí dụ: để vận dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ cần tiến hành các thao tác cụ thể như phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp, khái quát hóa….

d)K hái niệm hình thức dạy – học được hiểu là những cách thức hiện thực hoá, hành động hoá các phương pháp và thủ pháp dạy-học ( Chẳng hạn hình thức diễn giảng, đàm thoại, đọc giáo khoa,….

P hương pháp dạy – học tiếng Việt là môn học chuyên nghiên cứu quá trình dạy – học tiếng Việt bao gồm việc nghiên cứu đối tượng, nhiệm vụ, mục tiêu, các cơ sở khoa học, các nguyên tắc xây dựng của chương trình và những cách thức thiết kế, tổ chức quá trình dạy học các đơn vị kiến thức tiếng Việt của chương trình.

Khái Quát Về Phương Pháp Dạy Học “Bàn Tay Nặn Bột”

1.Phương pháp dạy học “Bàn tay nặn bột” là gì?

– Phương pháp dạy học “Bàn tay nặn bột” (BTNB), tiếng Pháp là La main à la pâte – viết tắt là LAMAP; tiếng Anh là Hands-on, là phương pháp dạy học khoa học dựa trên cơ sở của sự tìm tòi – nghiên cứu, áp dụng cho việc dạy học các môn khoa học tự nhiên.

– Phương pháp này được khởi xướng bởi Giáo sư Georges Charpak (Giải Nobel Vật lý năm 1992).

– Theo phương pháp BTNB, dưới sự giúp đỡ của giáo viên, chính học sinh tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra để từ đó hình thành kiến thức cho mình.

BTNB chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho HS bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra…

Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác BTNB luôn coi HS là trung tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của GV.

Mục tiêu của BTNB là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say mê khoa học của HS. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho HS.

2. Tiến trình dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”

` Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề.

– Là một tình huống do giáo viên chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học

– Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học.

– Câu hỏi phải phù hợp với trình độ học sinh, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò của học sinh.

– Giáo viên phải dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không được dùng câu hỏi đóng.

Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh.

– Giáo viên khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình về sự vật, hiện tưởng mới.

– Giáo viên cho học sinh trình bày bằng nhiều hình thức: viết, vẽ, nói, ….

– Giáo viên không nhất thiết phải chú ý tới các quan niệm đúng, cần phải chú trọng đến các quan niệm sai.

Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm.

3.1 Đề xuất câu hỏi.

– Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu, GV giúp HS đề xuất câu hỏi.

3.2 Đề xuất phương án thực nghiệm nghiên cứu.

– Từ những câu hỏi của HS, GV nêu câu hỏi cho HS đề nghị các em đề xuất thực nghiệm để tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi đó.

– GV ghi chú lên bảng các đề xuất của HS để các ý kiến sau không trùng lặp.

– Khuyến khích HS tự đánh giá ý kiến nhau hơn là ý kiến của GV nhận xét.

Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu

– Quan sát tranh và mô hình và ưu tiên thực nghiệm trên vật thật

– Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu, GV giúp HS đề xuất câu hỏi.

Bước 5: Kết luận kiến thức mới.

3. Dạy học theo phương pháp ” bàn tay nặn bột” cần chú ý những nguyên tắc gì?

1. Học sinh quan sát một vật hoặc một hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi, có thể cảm nhận được và tiến hành thực nghiệm về chúng.

3. Các hoạt động giáo viên đề ra cho học sinh được tổ chức theo các giờ học nhằm cho các em có sự tiến bộ dần dần trong học tập. Các hoạt động này gắn với chương trình và giành phần lớn quyền tự chủ cho học sinh.

4. Tối thiểu 2 giờ một tuần dành cho một đề tài và có thể kéo dài hoạt động trong nhiều tuần. Tính liên tục của các hoạt động và những phương pháp sư phạm được đảm bảo trong suốt quá trình học tập tại trường.

5. Mỗi học sinh có một quyển vở thí nghiệm và học sinh trình bày trong đó theo ngôn ngữ của riêng mình.

6. Mục đích hàng đầu đó là giúp học sinh tiếp cận một cách dần dần với các khái niệm thuộc lĩnh vực khoa học, kĩ thuật…kèm theo một sự vững vàng trong diễn đạt nói và viết./.

Phan Thị Minh Giang @ 09:44 25/11/2019 Số lượt xem: 116

Khái Niệm Giải Pháp

Khái niệm giải pháp

05/25/2020

10 phút để đọc

M

o

D

Trong bài viết này

Giải pháp là cơ chế để triển khai ALM trong Power Apps và Power Automate. Bài viết này trình bày các khái niệm chính sau đây về giải pháp:

2 loại giải pháp

Thành phần giải pháp

Vòng đời của giải pháp

Nhà phát hành giải pháp

Tác nhân phụ thuộc của giải pháp và thành phần giải pháp

Giải pháp được quản lý và không được quản lý

Giải pháp có hai loại là được quản lý hoặc không được quản lý.

Giải pháp không được quản lý dùng trong các môi trường phát triển trong khi bạn thực hiện thay đổi đối với ứng dụng của mình. Bạn có thể xuất các giải pháp không được quản lý dưới dạng không được quản lý hoặc được quản lý. Các phiên bản của giải pháp không được quản lý đã xuất nên được kiểm tra trong hệ thống kiểm soát nguồn. Giải pháp không được quản lý nên được coi là nguồn cho tài nguyên của Microsoft Power Platform. Khi một giải pháp không quản lý bị xóa, thì chỉ bộ chứa giải pháp của điểm tùy chỉnh bất kỳ có trong đó mới bị xóa. Tất cả các điểm tùy chỉnh không quản lý sẽ vẫn có hiệu lực và thuộc giải pháp mặc định.

Giải pháp được quản lý dùng để triển khai đến mọi môi trường không phải là môi trường phát triển của giải pháp đó. Điều này bao gồm kiểm tra, UAT, SIT và môi trường sản xuất. Giải pháp được quản lý có thể được nhận dịch vụ độc lập với các giải pháp được quản lý khác trong một môi trường. Là biện pháp ALM tốt nhất, giải pháp không được quản lý nên được tạo ra bằng cách xuất một giải pháp không được quản lý ở trạng thái được quản lý và coi như một thành phần phát triển lạ. Ngoài ra:

Bạn không thể chỉnh sửa trực tiếp các thành phần trong giải pháp được quản lý. Để chỉnh sửa các thành phần được quản lý, trước tiên bạn hãy thêm các thành phần đó vào một giải pháp không được quản lý.

Khi làm như vậy, bạn sẽ tạo mối quan hệ phụ thuộc giữa các điểm tùy chỉnh không quản lý và tác nhân có quản lý. Khi một quan hệ phụ thuộc tồn tại, bạn không thể gỡ cài đặt một giải pháp được quản lý cho đến khi xóa quan hệ phụ thuộc đó.

Bạn không thể chỉnh sửa một số thành phần được quản lý. Để xác minh có thể chỉnh sửa một thành phần hay không, hãy xem Thuộc tính được quản lý.

Bạn không thể xuất giải pháp có quản lý.

Khi giải pháp có quản lý bị xóa (gỡ cài đặt), mọi điểm tùy chỉnh và phần mở rộng có trong đó cũng sẽ bị xóa.

Quan trọng

Bạn không thể nhập một giải pháp được quản lý vào cùng môi trường có chứa giải pháp không được quản lý ban đầu. Để thử nghiệm giải pháp có quản lý, bạn phải nhập giải pháp này vào một môi trường riêng.

Khi bạn xóa giải pháp có quản lý, những dữ liệu sau sẽ bị mất: dữ liệu lưu trữ trong các thực thể tùy chỉnh thuộc giải pháp có quản lý và dữ liệu được lưu trữ trong các thuộc tính tùy chỉnh thuộc giải pháp có quản lý trên các thực thể các không thuộc giải pháp có quản lý.

Người tạo và nhà phát triển làm việc trong môi trường phát triển sử dụng giải pháp không được quản lý, sau đó nhập chúng vào các môi trường xuôi tuyến khác—chẳng hạn như môi trường kiểm tra—dưới dạng giải pháp được quản lý.

Lưu ý

Khi tùy chỉnh trong môi trường phát triển, bạn đang làm việc trên lớp không được quản lý. Sau đó, khi bạn xuất giải pháp không được quản lý dưới dạng giải pháp được quản lý để phân phối sang môi trường khác, giải pháp được quản lý được nhập vào môi trường trên lớp được quản lý. Thông tin thêm: Lớp giải pháp

Thành phần giải pháp

Thành phần đại diện cho những thứ mà bạn có thể tùy chỉnh. Bất cứ điều gì có thể được bao gồm trong giải pháp cũng là một thành phần. Để xem các thành phần có trong một giải pháp, hãy mở giải pháp mà bạn muốn. Các thành phần được liệt kê trong danh sách Thành phần.

Lưu ý

Bạn không thể chỉnh sửa trực tiếp các thành phần trong giải pháp được quản lý.

Để xem danh sách các loại thành phần có thể thêm vào giải pháp bất kỳ, hãy xem Tùy chọn ComponentType.

Một số thành phần được lồng trong các thành phần khác. Ví dụ, một thực thể chứa biểu mẫu, dạng xem, biểu đồ, trường, mối quan hệ thực thể, thông báo và quy tắc kinh doanh. Mỗi thành phần yêu cầu tồn tại thực thể. Một trường không thể tồn tại bên ngoài một thực thể. Chúng tôi nghĩ rằng trường phụ thuộc vào các thực thể. Số loại thành phần thực tế còn nhiều gấp hai lần như đã trình bày trong danh sách trước đó, nhưng đa số không được lồng trong các thành phần khác và không hiển thị trong ứng dụng.

Các thành phần giúp theo dõi mọi giới hạn về nội dung có thể được tùy chỉnh bằng cách sử dụng thuộc tính được quản lý và tất cả các quan hệ phụ thuộc để có thể xuất, nhập và (trong giải pháp được quản lý) xóa nội dung mà không để lại bất cứ hậu quả nào.

Vòng đời giải pháp

Giải pháp hỗ trợ các hành động sau đây, giúp hỗ trợ các quy trình vòng đời ứng dụng:

Tạo Biên soạn và xuất giải pháp không được quản lý.

Cập nhật Tạo bản cập nhật cho giải pháp được quản lý được triển khai đến giải pháp được quản lý cha. Bạn không thể xóa thành phần bằng bản cập nhật.

Nâng cấp Nhập giải pháp dưới dạng bản nâng cấp vào giải pháp được quản lý hiện có, loại bỏ các thành phần không sử dụng và thực hiện lô-gic nâng cấp. Bản nâng cấp bao gồm việc tổng hợp (hợp nhất) tất cả các bản vá cho giải pháp thành một phiên bản giải pháp mới. Bản nâng cấp giải pháp sẽ xóa các thành phần tồn tại nhưng không còn có trong phiên bản nâng cấp. Bạn có thể chọn nâng cấp ngay lập tức hoặc lên lịch nâng cấp để có thể thực hiện một số hành động bổ sung trước khi hoàn thành quá trình nâng cấp.

Vá lỗi Bản vá lỗi chỉ chứa những thay đổi đối với giải pháp được quản lý cha, như thêm hoặc chỉnh sửa thành phần hoặc tài nguyên. Sử dụng bản vá lỗi khi thực hiện các cập nhật nhỏ (tương tự như cập nhật nóng). Khi các bản vá được nhập, chúng được xếp chồng lên trên cùng của giải pháp cha. Bạn không thể xóa thành phần bằng bản vá.

Nhà phát hành giải pháp

Mọi ứng dụng và các thành phần giải pháp khác như các thực thể bạn tạo hoặc bất kỳ tùy chỉnh nào bạn thực hiện là một phần của giải pháp. Vì mọi giải pháp đều có nhà phát hành, do đó, bạn nên tạo nhà phát hành của riêng mình thay vì sử dụng nhà phát hành mặc định. Khi tạo một giải pháp, bạn sẽ chỉ định nhà phát hành.

Lưu ý

Ngay cả khi bạn không sử dụng giải pháp tùy chỉnh, bạn sẽ làm việc trong các giải pháp được gọi là Giải pháp mặc định Common Data Service và Giải pháp mặc định. Thêm thông tin: Giải pháp mặc định và Giải pháp mặc định Common Data Service

Nhà phát hành của một giải pháp nơi một thành phần được tạo ra được coi là chủ sở hữu của thành phần đó. Chủ sở hữu của một thành phần kiểm soát những gì thay đổi các nhà phát hành giải pháp khác bao gồm thành phần đó được phép thực hiện hoặc hạn chế thực hiện. Có thể chuyển quyền sở hữu của một thành phần từ giải pháp này sang giải pháp khác trong cùng một nhà phát hành, nhưng không phải giữa các nhà phát hành. Do đó, tốt nhất là bạn nên xác định một nhà phát hành duy nhất để có thể thay đổi mô hình phân lớp trên các nhà phát hành sau này.

Nhà phát hành giải pháp xác định ai là người phát triển ứng dụng. Vì lý do này, bạn nên tạo một tên nhà phát hành giải pháp có ý nghĩa.

Tiền tố nhà phát hành giải pháp

Nhà phát hành giải pháp bao gồm một tiền tố. Tiền tố nhà phát hành là một cơ chế để giúp tránh việc xung đột khi đặt tên. Điều này cho phép cài đặt giải pháp từ các nhà phát hành khác nhau trong một môi trường mà ít khi gặp xung đột. Ví dụ, giải pháp Contoso được hiển thị ở đây bao gồm tiền tố đối tác phát triển giải pháp của contoso.

Lưu ý

Bạn nên thay đổi tiền tố nhà phát hành giải pháp trước khi tạo bất kỳ ứng dụng hoặc mục siêu dữ liệu mới nào, vì bạn không thể thay đổi tên của mục siêu dữ liệu sau khi tạo.

Thông tin thêm:

Sự phụ thuộc giải pháp

Do cách phân lớp các giải pháp được quản lý, một số giải pháp được quản lý có thể bị phụ thuộc vào các thành phần giải pháp trong các giải pháp được quản lý khác. Một số đối tác phát triển giải pháp sẽ tận dụng lợi thế này để xây dựng các giải pháp dạng mô-đun. Bạn có thể cần cài đặt một giải pháp được quản lý “cơ bản” trước, sau đó bạn có thể cài đặt một giải pháp được quản lý lần thứ hai sẽ tùy chỉnh thêm các thành phần trong giải pháp được quản lý cơ sở đó. Giải pháp được quản lý thứ hai phụ thuộc vào thành phần giải pháp mà là một phần của giải pháp đầu tiên.

Tác nhân phụ thuộc của thành phần giải pháp

Lớp giải pháp Tạo và quản lý môi trường trong trung tâm quản trị Power Platform

Khái Niệm Về Nghĩa Của Từ

Lưỡng phân ngôn ngữ, ta nhận ra hai mặt của nó: mặt biểu hiện (âm thanh) và mặt được biểu hiện (nội dung). Nghĩa của từ thuộc về mặt thứ hai.

Vì dụ: Từ CÂY trong tiếng Việt có vỏ ngữ âm như đã đọc lên ([kej 1]), và từ này có nội dung, có nghĩa của nó.

2. Để trả lời câu hỏi chính “Nghĩa của từ là gì?”, trước hết ta phải trở lại với bản chất tín hiệu của từ. Từ là tín hiệu, nó phải “nói lên”, phải đại diện cho, phải được người sử dụng quy chiếu về một cái gì đó.

2.1. Khi một người nghe hoặc nói một từ nào đó, mà anh ta quy chiếu, gắn vào đúng sự vật có tên gọi là từ đó như cả cộng đồng xã hội vẫn gọi; đồng thời, ít nhiều anh ta cũng biết được những đặc trưng cơ bản nhất của sự vật đó, và anh ta sử dụng từ đó trong giao tiếp đúng với các mẹo luật mà ngôn ngữ có từ đó cho phép; ta nói rằng anh ta đã hiểu nghĩa của từ đó.

Ví dụ: Một người Việt hoặc không phải là người Việt, nói hoặc nghe một từ, như CÂY chẳng hạn, mà anh ta có thể:

Quy chiếu, gắn được từ “cây”vào mọi cái cây bất kì trong thực tại đời sống;

Ít nhiều cũng biết được đại khái như: cây là loài thực vật mà phần thân, lá đã phân biệt rõ, ví dụ như: cây mía, cây tre,…

Dùng từ “cây” trong giao tiếp, phát ngôn,… đúng với quy tắc ngữ pháp tiếng Việt.

Ta nói được rằng: Anh ta hiểu nghĩa của từ CÂY trong tiếng Việt.

Cho tới nay, đa số các nhà nghiên cứu đều quan niệm nghĩa của từ là những liên hệ. Tuy nhiên, đó không phải là những liên hệ logic tất yếu, mà là những liên hệ phản ánh, mang tính quy ước, được xây dựng bởi những cộng đồng người bản ngữ.

Thuở nhỏ, ta thấy một cái cây bất kì chẳng hạn, ta hỏi đó là cái gì và được trả lời đó là là cái cây. Dần dần, nay với cây này, mai với cây khác, ta liên hội được từ CÂY của tiếng Việt với chúng. Thế rồi, bước tiếp theo nữa, ta dùng được từ “cây” trong các phát ngôn như trồng cây, chặt cây, tưới cây, cây đổ, cây cau, cây hoa,… và tiến tới hiểu cây là loài thực vật, có thân, rễ, lá, hoặc hoa, quả,… Vậy là ta đã hiểu được nghĩa của từ CÂY.

Đến đây, có thể phát biểu vắn tắt lại như sau: Nói chung, nghĩa của từ là những liên hệ được xác lập trong nhận thức của chúng ta giữa những cái mà nó (từ) chỉ ra (những cái mà nó làm tín hiệu cho).

2.2. Câu hỏi tiếp theo là: Nghĩa của từ tồn tại ở đâu?

Ta đã thừa nhận và chứng minh bản chất tín hiệu của từ, rằng nó có hai mặt: mặt hình thức vật chất âm thanh và mặt nội dung ý nghĩa. Hai mặt này gắn bó với nhau như hai mặt của một tờ giấy, nếu không có mặt này thì cũng không có mặt kia. Vậy nghĩa của từ tồn tại trong từ, nói rộng ra là trong hệ thống ngôn ngữ. Nó là cái phần nửa làm cho ngôn ngữ nói chung và từ nói riêng, trở thành những thực thể vật chất-tính thần.

Nghĩa của từ không tồn tại trong ý thức, trong bộ óc của con người. Trong ý thức, trong tư duy của con người chỉ có những hoạt động nhận thức, hoạt động tư duy,… mà thôi. Điều này ngụ ý rằng: Trong ý thức, trong bộ óc trí tuệ của con người chỉ tồn tại sự hiểu biết về nghĩa của từ chứ không phải là nghĩa của từ.

3. Từ có liên hệ với nhiều nhân tố, nhiều hiện tượng. Bởi thế nghĩa của từ cũng không phải chỉ có một thành phần, một kiểu loại. Khi nói về nghĩa của từ, người ta thường phân biệt các thành phần nghĩa sau đây:

3.1. Nghĩa biểu vật (denotative meaning): Là liên hệ giữa từ với sự vật (hoặc hiện tượng, thuộc tính, hành động,…) mà nó chỉ ra. Bản thân sự vật, hiện tượng, thuộc tính, hành động,… đó, người ta gọi là biểu vật hay cái biểu vật (denotat). Biểu vật có thể hiện thực hoặc phi hiện thực, hữu hình hay vô hình, có bản chất vật chất hoặc phi vật chất. Ví dụ: đất, trời, mưa, nắng, nóng, lạnh, ma, quỷ, thánh, thàn, thiên đường, địa ngục,…

3.2. Nghĩa biểu niệm (significative meaning): Là liên hệ giữa từ với ý (hoặc ý nghĩa, ý niệm – signification – nếu chúng ta không cần phân biệt nghiêm ngặt mấy tên gọi này). Cái ý đó người ta gọi là cái biểu niệm hoặc biểu niệm (sự phản ánh các thuộc tính của biểu vật vào trong ý thức của con người).

Nghĩa ngữ dụng (pragmatical meaning), còn được gọi là nghĩa biểu thái, nghĩa hàm chỉ (connotative meaning), là mối liên hệ giữa từ với thái độ chủ quan, cảm xúc của người nói.

Nghĩa cấu trúc (structural meaning) là mối quan hệ giữa từ với các từ khác trong hệ thống từ vựng. Quan hệ giữa từ này với từ khác thể hiện trên hai trục: trục đối vị (paradigmatical axis) và trục ngữ đoạn (syntagmatical axis). Quan hệ trên trục đối vị cho ta xác định được giá trị của từ, khu biệt từ này với từ khác, còn quan hệ trên trục ngữ đoạn cho ta xác định được ngữ trị (valence) – khả năng kết hợp – của từ.

Thật ra, những phân biệt như trên là cần thiết và hợp lí, nhưng không phải các thành phần đó hiện diện trong mỗi từ bao giờ cũng đồng đều và rõ ràng như nhau. Vì thế, trong từ vựng-ngữ nghĩa học, nhiều khi người ta chỉ nhắc đến nghĩa ngữ dụng, nghĩa cấu trúc, thậm chí cả nghĩa biểu vật nữa, nhưng những xác nhận về sự tồn tại của chúng hơn là phân tích, chứng minh cho thật minh bạch.

4. Đối với từ vựng-ngữ nghĩa học, cái quan trọng nổi lên hàng đầu là nghĩa biểu niệm. Cần phải hiểu mối liên hệ mà chúng ta nói tới trong quan niệm về nghĩa của từ ở đây chính là mối liên hệ chỉ xuất, mối liên hệ phản ánh, cho nên nghĩa biểu hiện cũng có thể hiểu là sự phản ánh sự vật-biểu vật (đúng hơn là phản ánh các thuộc tính, các đặc trưng của chúng) trong ý thức con người, được tiến hành bằng từ.

Trọng tâm chú ý phân tích, miêu tả của từ vựng-ngữ nghĩa học là nghĩa biểu niệm chứ không phải là các thành phần khác (Chúng chỉ được lưu ý trong những trường hợp cần thiết mà thôi). Vì vậy, ở đây khi không thật bắt buộc phải xác định rành mạch về mặt thuật ngữ, thì chúng ta sẽ nói đến nghĩa với nội dung được hiểu là nghĩa biểu niệm cho giản tiện.

5. Cần phân biệt nghĩa của từ với khái niệm. Nghĩa và khái niệm gắn bó với nhau rất mật thiết, nưhng nói chung là chúng không trùng nhau.

Khái niệm là một kết quả của quá trình nhận thức, phản ánh những đặc trưng chung nhất, khái quát nhất và bản chất nhất của sự vật, hiện tượng. Người ta có được khái niệm chủ yếu là nhờ những khám phá, tìm tòi khoa học. Nội dung của một khái niệm có thể rất rộng, rất sâu, tiệm cận tới chân lí khoa học, và có thể được diễn đạt bằng hàng loạt những ý kiến nhận xét. Mặt khác, rõ ràng là không phải khái niệm nào cũng được phản ánh bằng từ mà nó có thể được biểu hiện bằng hơn một từ. Ví dụ: nước cứng, tổ hợp quỹ đạo, mặt gặt đập liên hợp, công nghệ sinh học,…

Nghĩa của từ cũng phản ánh những đặc trưng chung, khái quát của sự vật, hiện tượng do con người nhận thức được trong đời sống thực tiễn tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, nó có thể chưa phải là kết quả của nhận thức đã tiệm cận đến chân lí khoa học. Vì thế, sự vật, hiện tượng nào mà càng ít được nghiênc cứu, phám phá thì nhận thức về nó được phản ánh trong nghĩa của từ gọi tên nó càng xa với khái niệm khoa học.

Bên cạnh đó, ta thấy rằng, không phải từ nào cũng phản ánh khái niệm (các thán từ và các từ công cụ ngữ pháp chẳng hạn) và trong nghĩa của từ còn có thể hàm chứa cả sự đánh giá về mặt này hay mặt khác, có thể chứa cả cảm xúc và thái độ của con người,…

Để tiện so sánh, chúng ta phân tích từ nước của tiếng Việt. Khái niệm khoa học về nước là: Hợp chất của ôxi và hiđrô mà trong thành phần của mỗi phân tử nước có hai nguyên tử hiđrô và mọt nguyên tử ôxi.

Nghĩa “nôm” của từ nước có thể được miêu tả dưới dạng từ điển ngắn gọn là: Chất lỏng không màu, không mùi và hầu như không vị, có sẵn trong ao hồ, sông suối,…

Miêu tả như thế thật ra là chưa đủ. Rất nhiều thứ, loại (biểu vật) được người Việt quy về loại nước mà chả cần chúng đảm bảo thuộc tính lỏng, còn có nước nhiều hay ít, mùi vị thế nào, thậm chí có nước hay không,… điều đó không quan trọng. Chẳng hạn: nước biển, nước mắm, nước xốt, nước dứa, nước ép hoa quả,…

Theo Mai Ngọc Chừ; Vũ Đức Nghiệu & Hoàng Trọng Phiến. Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt. Nxb Giáo dục, H., 1997, trang 166-171.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Khái Niệm Về Phương Pháp Dạy Học trên website Cuocthitainang2010.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!