Cập nhật nội dung chi tiết về Khi Quay Phim Nên Định Dạng Video Hệ Ntsc Hay Là Pal? mới nhất trên website Cuocthitainang2010.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Hệ PAL và NTSC tuy rất quen thuộc với các nhà quay phim. Chúng ta sẽ thường xuyên nhìn thấy chúng khi cài đặt các thông số cho máy ảnh, máy quay. Và không phải ai cũng hiểu rõ về PAL hay NTSC là gì, khác biệt giữa chúng ra sao, khi nào thì dùng PAL, khi nào thì dùng NTSC.
PAL và NTSC là gì?
PAL và NTSC là thuật ngữ được dùng chủ yếu trong hệ thống truyền hình analog, trong đó NTSC (National Teltevision System Committee) ra đời trước và là tiêu chuẩn video tương tự được sử dụng ở Bắc Mỹ và hầu hết Nam Mỹ. Ở tiêu chuẩn NTSC có 30 khung hình ảnh được truyền đi trong mỗi giây. Mỗi khung hình được tạo bởi 525 dòng quét đơn. Tại một số quốc gia như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Châu Mỹ sử dụng hệ thống điện lưới có tần số 60Hz vì vậy NTSC được sử dụng hầu hết ở các nước Châu Mỹ bao gồm: Mỹ, Canada, Mexico, một số khu vực trung và Nam Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc.
Pal (Phase Alternating Line) là tiêu chuẩn video được dùng phần lớn ở Châu Âu, châu Á. Chuẩn PAL có tần số quét ngang là 50Hz (tương đương 25 khung hình/s). Mỗi khung hình được tao ra bởi 625 dòng quét. Đối với các nước châu Âu, châu Á sử dụng nguồn điện có tần số 50Hz, cho nên phần lớn sử dụng chủ yếu là hệ PAL. PAL được dùng rộng rãi tại các nước như Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, Trung Quốc, Ấn Độ, hầu hết các nước Châu Phi, Trung Đông và cả Việt Nam.
So sánh chất lượng hình ảnh giữa PAL và NTSC
Hệ PAL cho ra hình ảnh sắc nét hơn hệ NTSC: nguyên nhân là một frame hình ảnh của hệ PAL hơn một frame hình ảnh của hệ NTSC 100 dòng quét đơn
Hệ NTSC cho ra hình ảnh mượt mà hơn hệ PAL: nguyên nhân là trong một giây PAL chỉ có 25 frames, còn NTSC là 30 frames.
Ngoài ra, kích cỡ hình ảnh của hệ thống truyền hình analog khi được số hóa lớn nhất đối với NTSC là 720×480 pixels và đối với PAL là 720×576 pixels. Vì vậy nếu bạn lỡ quay hình với chuẩn NTSC sau đó muốn chuyển sang PAL thì hình ảnh sẽ bị mờ, do kích thước khung hình được phóng lớn hơn bản gốc gây kém chất lượng. Còn nếu bạn chuyển từ PAL sang NTSC thì hình ảnh sẽ bị giật do kém về số lượng khung hình/giây. Tuy nhiên hiện nay hệ thống truyền hình analog (ghi hình bằng các loại băng từ) đang ngày càng lỗi thời và mọi người dần chuyển sang công nghệ hình ảnh kỹ thuật số (ghi hình bằng thẻ nhớ) nên độ phân giải không còn là vấn đề mà bạn phải bận tâm.
Vì vậy, tùy theo khách hàng của bạn là người sinh sống tại nước nào thì bạn nên cài đặt chế độ quay phim, dựng phim và xuất DVD hợp lý nếu họ có nhu cầu xem phim bằng TV. Còn nếu chỉ upload và xem trên internet thì không cần quan tâm.
Hệ Pal Và Ntsc Là Gì?
Hệ PAL và NTSC tuy rất quen thuộc với các quay phim, bởi họ thường xuyên nhìn thấy thông số này khi chuẩn bị cài đặt máy quay cho một chương trình (sự kiện), mặc dù vậy không phải ai cũng hiểu rõ về PAL/NTSC, do phần lớn chúng ta dù làm nghề quay phim nhưng thường không để ý đến những kỹ thuật trong hình ảnh video. Và chúng ta thường cài đặt máy quay theo thói quen, hoặc được những người đi trước truyền đạt kinh nghiệm rồi làm theo. Vậy hệ PAL và NTSC là gì?
Tôi có nhiều kỉ niệm về việc chọn hệ PAL/NTSC từ những năm 2002-2005, đi học trong trường cũng không có dạy kỹ về vấn đề này, khi đó được giao làm phim tài liệu cho Báo Người Lao Động, đó là show lớn đầu tiên được làm đạo diễn. Lúc setting máy quay, anh quay phim hỏi “quay hệ nào? PAL hay NTSC” thì cũng nhanh nhảu trả lời “PAL đi anh!” bởi vì trước đó đi theo các đoàn phim thì nghe người ta nói vậy, chứ trong lòng thì không hiểu PAL và NTSC là gì và ở Việt Nam thì chọn hệ nào mới đúng. Sau này đi quay nhiều chương trình, đặc biệt là những chương trình có nhiều máy quay và mỗi ông quay phim thì cài đặt một chuẩn khác nhau, trong khi kinh nghiệm của mình thì không nhiều để quản lý, nên lúc làm hậu kỳ là chỉ có khóc lóc với phòng dựng phim để được “cứu vớt”.
Hệ PAL và NTSC là gì? PAL hay NTSC có trước?
PAL và NTSC là thuật ngữ được dùng chủ yếu trong hệ thống truyền hình analog, trong đó hệ NTSC ra đời trước (đây là tên viết tắt của cụm từ National Television System Committee nghĩa là ủy ban quốc gia về các hệ thống truyền hình). NTSC được phát triển từ năm 1941 và sau đó được áp dụng rộng rãi tại các quốc gia thuộc Châu Mỹ (nhưng ngoại trừ Brazil, Argentina, Paraguay, Uruguay)… và các quốc gia Châu Á như Burma, South Korea, Taiwan, Japan, Philippines… Theo tiêu chuẩn NTSC có 30 khung hình/giây, trong đó mỗi khung hình được tạo bởi 525 dòng quét đơn.
Còn hệ PAL là viết tắt của cụm từ Phase Alternative Line nghĩa là đảo pha theo từng dòng một, do giáo sư tiến sĩ người Đức, Walter Bruch phát triển năm 1962 và được phát sóng lần đầu trên kênh truyền hình CCIR của Tây Đức vào năm 1966. Hệ PAL ra đời nhằm mục đích cải thiện các nhược điểm về hình ảnh của NTSC và phù hợp hơn đối với các hệ thống lưới điện quốc gia sử dụng tần số 50hz. Về sau, hệ PAL gần như thống trị Thế Giới khi được sử dụng tại Châu Âu, Châu Mỹ (Brazil, Argentina, Paraguay, Uruguay…) và rất nhiều quốc gia Châu Á trong đó có Việt Nam, Laos, Thailand, Brunei… Theo tiêu chuẩn PAL có 25 khung hình/giây, trong đó mỗi khung hình được tạo bởi 625 dòng quét đơn.
Chúng ta có được quyền cài đặt PAL/NTSC theo ý thích?
Chúng ta không nên cài đặt hệ PAL/NTSC theo ý thích, bởi việc này phụ thuộc vào hệ thống lưới điện của từng quốc gia chứ không phải phụ thuộc vào thiết bị. Có hai nguyên nhân gây ảnh hưởng trực tiếp như sau:
So sánh chất lượng hình ảnh giữa PAL và NTSC:
Hệ PAL cho ra hình ảnh sắc nét hơn hệ NTSC: nguyên nhân là một frame hình ảnh của hệ PAL hơn một frame hình ảnh của hệ NTSC 100 dòng quét (625 lines so với 525 lines).
Hệ NTSC cho ra hình ảnh mượt mà hơn hệ PAL: nguyên nhân là trong một giây PAL chỉ có 25 frames, còn NTSC là 30 frames.
Ngoài ra, kích cỡ hình ảnh của hệ thống truyền hình analog khi được số hóa lớn nhất đối với NTSC là 720×480 pixels và đối với PAL là 720×576 pixels. Vì vậy nếu bạn lỡ quay hình với chuẩn NTSC sau đó muốn chuyển sang PAL thì hình ảnh sẽ bị mờ, do kích thước khung hình được phóng lớn hơn bản gốc gây kém chất lượng. Còn nếu bạn chuyển từ PAL sang NTSC thì hình ảnh sẽ bị giật do kém về số lượng khung hình/giây. Tuy nhiên hiện nay hệ thống truyền hình analog (ghi hình bằng các loại băng từ) đang ngày càng lỗi thời và mọi người dần chuyển sang công nghệ hình ảnh kỹ thuật số (ghi hình bằng thẻ nhớ) nên độ phân giải không còn là vấn đề mà bạn phải bận tâm.
Vì vậy, tùy theo khách hàng của bạn là người sinh sống tại nước nào thì bạn nên cài đặt chế độ quay phim, dựng phim và xuất DVD hợp lý nếu họ có nhu cầu xem phim bằng Tivi, còn nếu chỉ upload và xem trên internet thì không cần quan tâm.
Tìm Hiểu Về Hệ Pal Và Ntsc Trong Camera Giám Sát
Trong khi tivi màu hay đầu máy video cassette hiện nay phần lớn đều là đa hệ, camera thông dụng trên thị trường thường chỉ có một hệ là camera NTSC hoặc camera Pal. Cùng một model camera, nhưng có khi có hai loại là máy hệ Pal và loại hệ NTSC, khác nhau vài chữ số trên ký hiệu. Vấn đề là nên lựa chọn hệ Pal hay NTSC?
Mặc dù hệ thống truyền hình tương tự và video camera được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới nhưng các quốc gia khác nhau lại sử dụng các tiêu chuẩn video khác nhau. Phổ biến nhất đó là NTSC (National Television System Committee) và PAL (Phase Alternating Line).
Mặc dù rất phổ biến nhưng hai thuật ngữ Pal và NTSC hầu hết trong chúng ta không thể phân biệt được rõ ràng bản chất giữa NTSC và PAL. Bởi đại đa số chúng ta không phải là những người làm chuyên môn trong lĩnh vực hình ảnh, video.w
NTSC ( National Teltevision System Committee) là tiêu chuẩn video tương tự được sử dụng ở Bắc Mỹ và hầu hết Nam Mỹ. Ở tiêu chuẩn NTSC có 30 khung hình ảnh được truyền đi trong mỗi giây (30fps/s). Mỗi khung hình được tạo bởi 525 dòng quét đơn.
Tại một số quốc gia như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Châu Mỹ sử dụng hệ thống điện lưới có tần số 60Hz vì vậy NTSC được sử dụng hầu hết ở các nước Châu Mỹ bao gồm: Mỹ, Canada, Mexico, một số khu vực trung và Nam Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc.
Pal ( Phase Alternating Line) là tiêu chuẩn video được dùng phần lớn ở Châu Âu, châu Á. Chuẩn PAL có tần số quét ngang là 50Hz (tương đương 25 khung hình/s ( 25fps/s) ). Mỗi khung hình được tao ra bởi 625 dòng quét.
Đối với các nước châu Âu, châu Á sử dụng nguồn điện có tần số 50Hz, cho nên phần lớn sử dụng chủ yếu là hệ Pal. Pal được dùng rộng rãi tại các nước như Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, Trung Quốc, Ấn độ, hầu hết các nước Châu Phi, Trung Đông trong đó có Việt Nam.
sử dụng 625 dòng quét, 50 field và 25 khung hình / giây, nhưng thành phần màu được thực hiện khác so với hệ PAL hoặc NTSC. Các quốc gia trên hệ thống SECAM bao gồm SECAM có thể coi là “ngoài vòng pháp luật” của các tiêu chuẩn video analog. Giống như PAL, SECAM Pháp, Nga, Đông Âu, và một số nước của khu vực Trung Đông.
Sự khác biệt giữa PAL và NTSC bắt đầu sâu xa từ hệ thống năng lượng mà thế giới đang sử dụng. Ở Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, và một số quốc gia ở Châu Mỹ sử dụng hệ thống điện có tần số 60Hz, vì lý do về kỹ thuật xử lý thông tin số dải truyền đi phụ thuộc vào tần số của dòng điện. Vì vậy tín hiệu được xử lý và truyền đi thành 60 dải trong một giây (thông thường còn gọi là tần số quét ngang 60Hz). Chúng ta biết hầu hết các công nghệ truyền hình hay video đều sử dụng công nghệ Interlace Scan (công nghệ quét dòng xen kẽ) để tạo nên một hình ảnh hoàn thiện. Do tốc độ quét quá nhanh nên 2 dải quét này người ta coi nó tạo thành một khung hình. Vì vậy với 60 dải được truyền đi trong giây tạo thành 30 khung hình trong một giây. Đó cũng chính là nguyên do tạo nên 30 khung/s cho chuẩn NTSC.
Còn hệ PAL thì sao??, chúng ta biết ở các nước Châu Âu, một số nước Châu Á trong đó có Việt Nam chúng ta sử dụng hệ thống điện có tần số là 50Hz, bằng cách giải thích tương tự như trên hệ PAL sẽ có số khung truyền đi trong một giây là 25 khung/s
Thử so sánh hai hệ về chất lượng hình ảnh : Rõ ràng với 625 dòng quét và 525 dòng quét hệ PAL cho chúng ta hình ảnh sắc nét hơn hẳn hệ NTSC. Nhưng với 30 khung/s so với 25 khung/s thì hệ NTSC cho chúng ta hình ảnh mợt hơn rất nhiều. Một điều chúng ta nên chú ý là khi chuyển hình ảnh từ NTSC sang PAL hình ảnh sẽ bị mờ hơn so với khi xem nguyên bản. Bởi kích thước khung ảnh phóng lên sẽ bị giãn ra, do vậy chất lượng sẽ kém hơn. Còn chuyển từ PAl sang NTSC có thể gây ra hình ảnh bị giật, do số khung/s của PAL ít hơn NTSC.
Ngoài tần số quét ngang còn có tần số quét dọc, chính vì vậy tạo nên kích thước khung hình của hai hệ này cũng khác nhau, vì vậy khi xem chúng ta vẫn thường thấy một số hiện tượng co hình (không full màn hình) ở một số bộ phim hay một số kênh truyền hình.
Đến đây chúng ta đã phần nào hiểu tại sao ở Việt Nam bạn nhất thiết phải dùng hệ PAL mà không phải là NTSC rồi phải không. Không phải nguyên do thiết bị của chúng ta quyết định mà là do lưới điện của chúng ta
0 đánh giá về Tìm hiểu về hệ PAL và NTSC trong camera giám sát
Margin Là Gì? Khi Nào Bạn Nên Sử Dụng Margin? (+Video)
Margin (hay giao dịch ký quỹ) là 1 thuật ngữ thông dụng được sử dụng trong đầu tư chứng khoán, đề cập đến việc nhà đầu tư có thể sử dụng khoản vay từ công ty chứng khoán để mua thêm cổ phiếu và sử dụng chính những cổ phiếu này để đảm bảo cho khoản vay.
Giống như cách bạn vay mua nhà, chỉ với 300 triệu đã sở hữu ngay căn nhà 1 tỷ đồng.
Chứng khoán cũng vậy…
Nếu bạn đang có 100 triệu, bạn có thể vay Margin từ công ty chứng khoán thêm 100 triệu để đầu tư vào chứng khoán.
Có nghĩa là…
Bạn sẽ mua được thêm nhiều cổ phiếu để gia tăng lợi nhuận (đồng thời rủi ro cũng tăng tương ứng).
Ví dụ:
Giả sử hiện tại bạn đang sở hữu 10.000 cổ phiếu REE với tổng giá trị 300 triệu VNĐ.
Cơ cấu tài sản ròng của bạn sẽ như sau:
Khi đó, mặc dù bạn không còn tiền mặt nhưng công ty chứng khoán sẽ cho bạn vay tiền để mua thêm cổ phiếu.
Hiểu đơn giản, giao dịch margin là giống như 1 giao dịch cho vay cầm cố. Cụ thể:
Công ty chứng khoán cho bạn vay tiền để mua thêm cổ phiếu
Cách sử dụng margin:
Bạn có thể được vay bao nhiêu tiền?
Số tiền mà công ty chứng khoán có thể cho bạn vay phụ thuộc vào 3 yếu tố:
Thứ nhất, cổ phiếu bạn đang nắm giữ là cổ phiếu gì. Cổ phiếu của bạn có chất lượng càng cao thì công ty chứng khoán sẽ cho bạn vay nhiều hơn.
Thứ hai, tùy từng thời điểm thị trường. Cụ thể: trong những giai đoạn thị trường tích cực, bạn sẽ được vay nhiều hơn.
Thứ ba, tùy vào tỷ lệ ký quỹ yêu cầu của từng công ty chứng khoán đặt ra.
Đầu tiên bạn cần nắm rõ cách tính:
Tỷ lệ ký quỹ margin (hay tỷ lệ đòn bẩy) là gì?
Công thức tính Tỷ lệ ký quỹ margin:
Tài sản ròng là giá trị của lượng cổ phiếu bạn đã mua sau khi đã trừ nợ vay margin (gồm cả gốc và lãi), tính theo giá thị trường hiện tại.
Ví dụ ở trên:
Nếu bạn sử dụng margin vay thêm 150 triệu để mua tiếp cổ phiếu REE.
Cơ cấu tài sản của bạn sẽ là:
Sau khi vay Margin mua thêm 250 triệu cổ phiếu REE:Giả định giá cổ phiếu REE vẫn đang giữ nguyên.
Khi đó, tỷ lệ ký quỹ hiện tại của bạn sẽ là:
Tỷ lệ ký quỹ hiện tại = 300/550 = 55%
Hiểu 1 cách ngắn ngọn như sau:
Ví dụ nếu bạn đang có tài sản là 100 triệu (cả tiền và cổ phiếu), công ty chứng khoán cho phép bạn mua cổ phiếu đến 150 triệu (hay, “sức mua” = 150 triệu), khi đó, tỷ lệ đòn bẩy là 1:1.5.
Nếu công ty chứng khoán cho phép bạn mua đến 200 triệu, thì tỷ lệ đòn bẩy là 1:2.
Tuy nhiên, bạn cần phải hiểu rằng…
Thứ hai, ngoài phần nợ gốc vay margin, mỗi ngày bạn sẽ phải trả lãi vay margin, tương ứng với mức lãi suất khoảng 12 – 14%/năm.
Vì vậy, giá trị tài sản ròng của bạn sẽ biến động mỗi ngày và làm thay đổi tỷ lệ ký quỹ margin.
Tỷ lệ ký quỹ margin càng giảm (càng thấp) thì càng rủi ro.
Khi tỷ lệ ký quỹ nhỏ hơn 50% nghĩa là tài sản ròng của bạn đang thấp hơn số nợ margin mà bạn phải trả.
Để phòng tránh rủi ro tổn thất khi sử dụng margin, bạn nhất định phải biết 3 ngưỡng Margin quan trọng sau đây:
Margin sau mua
Mặc dù, mỗi mã chứng khoán sẽ có tỷ lệ Margin khác nhau 50%, 60%…
Nhưng không phải lúc nào bạn cũng có thể vay tối đa.
Các công ty chứng khoán thường sẽ quy định giới hạn Tỷ lệ ký quỹ Margin sau mua tối thiểu là 50%.
Điều đó có nghĩa là:
Tỷ lệ Margin hiện tại của bạn đang dưới 50% bạn sẽ không thể vay thêm.
Nếu muốn vay thêm?
Bạn phải bổ sung ký quỹ bằng tiền, chứng khoán hoặc bán bớt những cổ phiếu kém hiệu quả nhằm tăng tỷ lệ Margin.
Tiếp tục ví dụ ở trên:
Giả sử giá trị cổ phiếu REE giảm 10%, và
Giả sử lãi vay margin phải trả là 10 triệu đồng (chú ý, mức lãi vay càng lớn nếu thời gian bạn vay càng lâu, lãi suất quy đổi khoảng 12 – 14%/năm)
Khi đó, cơ cấu tài sản của bạn sẽ như sau:
Bạn có thể thấy:
Giá trị cổ phiếu REE chỉ còn 495 triệu (giảm 10% từ mức 550 triệu)
Ngoài phần nợ gốc vay margin 250 triệu, bạn còn phải trả thêm 10 triệu tiền lãi vay
Tỷ lệ ký quỹ khi đó sẽ giảm xuống chỉ còn 47%.
Vậy rủi ro ở đây là gì?
Nếu bạn không vay margin, mức lỗ của bạn sẽ là: 300 triệu x (-10%) = 30 triệu.
Nhưng vì bạn có vay nợ margin để mua cổ phiếu, mức lỗ trên tổng giá trị cổ phiếu tăng thêm. Đồng thời, bạn phải trả thêm cả lãi vay margin.
Vì vậy, mức lỗ của bạn sẽ là:
Lỗ từ cổ phiếu: 550 triệu x (-10%) = 55 triệu.
Nợ từ lãi vay margin: 10 triệu.
Tổng lỗ: 65 triệu.
Hoặc bạn có thể tính nhanh bằng chênh lệch giữa Giá trị tài sản ròng và phần Vốn đầu tư ban đầu của bạn:
Cụ thể:
Tổng lỗ khi vay margin = 235 triệu (tài sản ròng) – 300 triệu (vốn ban đầu) = -65 triệu
Bạn có thể thấy, việc sử dụng margin đã làm tăng mức lỗ của bạn lên gấp đôi, từ 30 triệu thành 65 triệu.
Đây là mặt rủi ro của giao dịch margin.
Ở chiều ngược lại, khi giá trị cổ phiếu tăng lên thì mức lãi của bạn cũng tăng lên rất nhiều (cách tính tương tự).
Xu hướng thị trường ảnh hưởng như thế nào khi dùng margin?
Tùy vào xu hướng thị trường mà ảnh hưởng của việc sử dụng margin sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lãi-lỗ trong khoản đầu tư của bạn sẽ khác nhau. Cụ thể:
Thị trường đang ở xu hướng tăng
Nếu bạn đang dùng margin mà cổ phiếu tăng giá thì bạn sẽ có được lợi nhuận nhiều hơn. Đồng thời giá trị tài sản ròng tăng lên.
Bạn có thể tiếp tục được mua thêm cổ phiếu để gia tăng lợi nhuận nhanh hơn.
Khi cổ phiếu giảm giá
Nếu bạn đang sử dung margin mà cổ phiếu giảm giá thì lúc này giá trị tài sản ròng sẽ giảm tương ứng với tỉ lệ đòn bẩy mà bạn đang sử dụng.
Ví dụ, nếu bạn dùng tỉ lệ đòn bảy 1:2 thì sẽ lỗ gấp 2 lần bình thường, dùng tỉ lệ đòn bảy 1:3 thì sẽ lỗ gấp 3 lần bình thường.
Margin call
Khi giá trị tài sản ròng bị giảm, công ty chứng khoán sẽ yêu cầu bạn thực hiện việc bổ sung thêm tài sản đảm bảo là tiền hoặc cổ phiếu.
Nếu bạn không bổ sung thêm tài sản đảm bảo thì sẽ phải bán bớt cổ phiếu ra để giảm tiền vay, đưa tỉ lệ đòn bảy về đúng quy định của công ty chứng khoán.
Đây cũng chính là khái niệm Margin Call mà bạn sẽ phải đối mặt khi đầu tư chứng khoán mà sử dung margin.
Công thức tính:
Giá trị chứng khoán ký quỹ bổ sung = (Tỷ lệ ký quỹ – Tỷ lệ ký quỹ duy trì) / (1 – Tỷ lệ ký quỹ duy trì) x Tổng giá trị tài sản trên tài khoản giao dịch ký quỹ tính theo giá thị trường.
Hoặc:
Số tiền ký quỹ bổ sung= (Tỷ lệ ký quỹ – Tỷ lệ ký quỹ duy trì) x Tổng giá trị tài sản trên tài khoản giao dịch ký quỹ tính theo giá thị trường.
Trong đó:
Tỷ lệ ký quỹ duy trì là mức tỷ lệ ký quỹ tối thiểu được quy định bởi công ty chứng khoán. Ở Việt Nam, tỷ lệ này thường là khoảng 40%.
Quay lại câu chuyện khi margin call xảy ra…
Sử dụng margin như thế nào thì được xem là hiệu quả?
Hiện nay, lãi suất cho vay ký quỹ của các CTCK giao động từ 11%-14%.
Do đó, nếu tỷ lệ lợi nhuận trên vốn đầu tư của bạn không lớn hơn ~ 14% thì coi như bạn bị thua lỗ, và việc sử dụng margin được xem là không hiệu quả.
Mặt khác, tỷ lệ lãi suất này cũng chiếm một phần lớn trong lợi nhuận của nhà đầu tư nếu họ đầu tư có lời.
Vì vậy, cách sử dụng hiệu quả đòn bẩy tài chính là…
Sau khi trừ đi các chi phí lãi vay ký quỹ, bạn vẫn có lợi nhuận và chỉ dùng khi thị trường rõ xu hướng và có chiến lược rõ ràng.
Nếu bạn nhà đầu tư mới tham gia thị trường, cách tốt nhất là hạn chế dùng margin trong mỗi lần giao dịch.
Khi bạn đã “sống sót” trên thị trường được từ 3-5 năm thì mới nên sử dụng với tỷ lệ nhỏ và phải có chiến lược quản lý vốn hợp lý trước khi vào lệnh.
Vậy tóm lại, bạn có nên sử dụng Margin không?
Đồng ý việc sử dụng Margin trong chứng khoán có thể cho bạn mức lợi nhuận cao vượt trội.
Nhưng có lẽ bài học từ cuộc khủng hoảng năm 2008…
Hay chính Việt Nam năm 2011 khi lần đầu ban hành quy định về Margin vẫn còn nguyên đó.
Giống như những nhà đầu tư mới tìm hiểu khác…
Tôi thật lòng khuyên bạn không nên sử dụng Margin trong chứng khoán.
Có rất nhiều lý do khiến tôi khuyên bạn nên làm như vậy.
Nhưng sau cùng có 3 điều tôi cho là quan trọng nhất:
Bạn là người mới, không có nhiều kinh nghiệm
Qua nhiều năm, tôi chứng kiến không ít nhà đầu tư kinh nghiệm phải trả giá vì quá tự tin sử dụng Margin đòn bẩy cao.
Và khởi đầu, họ đều nói với tôi sẽ chỉ thử một chút…
Bạn chỉ nên bắt đầu với Margin khi đã biết cách kiểm soát rủi ro và làm chủ cảm xúc.
Áp lực ký quỹ, trả lãi vay có thể dẫn đến các quyết định sai lầm
Thông thường khi bạn đã sử dụng đến Margin, tức tiền thực có là không đủ cho nhu cầu đầu tư.
Nhưng…
Khi sử dụng Margin, công ty chứng khoán yêu cầu bạn đảm bảo mức ký quỹ tối thiểu.
Vô hình chung, bạn luôn phải đối mặt với áp lực cổ phiếu giảm giá thì phải bổ sung ký quỹ như thế nào?
Khi đó việc ra các quyết định sẽ không còn được chính xác.
Mặt khác, thời gian đến hạn cho mỗi khoản vay Margin chỉ vỏn vẹn 3 tháng…
Nếu bạn dùng Margin để đầu tư dài hạn là một sai lầm lớn.
Chưa kể, với mức lãi vay hiện tại tôi tin bạn sẽ phải cân nhắc lại:
Rủi ro từ thay đổi chính sách Margin
Thời gian gần đây khi mà VN-Index giảm từ hơn 1.200 về 900 điểm.
Nếu bạn để ý nhiều công ty chứng khoán đã hạ tỷ lệ margin của nhiều mã.
Thậm chí cắt Margin để giảm thiểu rủi ro.
Nếu cổ phiếu bạn đang vay Margin với tỷ lệ 50% bị siết lại còn 60%…
Đồng nghĩa bạn sẽ ngay lập tức phải nộp tiền hoặc bán cổ phiếu để duy trì tỷ lệ ký quỹ mới.
Tóm lại…
Bạn chỉ nên sử dụng margin trong những trường hợp sau:
Chỉ nên sử dụng margin khi bạn là một người có kinh nghiệm lâu năm. Nếu bạn chưa có kinh nghiệm thì không nên sử dụng.
Chỉ sử dụng margin khi thị trường có dấu hiệu tăng trưởng rõ ràng. Thị trường ở giai đoạn lình xình cũng không nên sử dụng margin.
Chỉ nên sử dung margin trong các giao dịch ngắn hạn. Nếu đầu tư lâu dài thì margin không phải một lựa chọn khôn ngoan.
Chỉ nên dùng margin khi đầu tư vào các cổ phiếu có tính thanh khoản tốt như Cổ phiếu cơ bản, cổ phiếu Bluechip. Với các cổ phiếu có lợi nhuận quá thấp thì không nên dùng margin
Lời kết
Trong đầu tư, margin luôn được ví như một con dao hai lưỡi.
Sử dụng margin có thể giúp bạn kiếm được lợi nhuận lớn chỉ với lượng vốn nhỏ, nhưng cũng vì nó mà thành quả của bạn cũng có thể bị xóa sạch.
Vì thế việc sử dụng đòn bẩy margin là hết sức mạo hiểm
Nhiều nhà đầu tư giá trị như Warren Buffett, cũng không ít lần cảnh báo về sự nguy hiểm của việc sử dụng đòn bẩy trong đầu tư.
Nếu bạn muốn khoản đầu tư của mình được đảm bảo, chống chọi qua những giai đoạn xấu của thị trường
Thì lời khuyên tốt nhất là bạn chỉ nên sử dụng tiền mặt để đầu tư.
Cuối cùng…
Bạn đang đọc nội dung bài viết Khi Quay Phim Nên Định Dạng Video Hệ Ntsc Hay Là Pal? trên website Cuocthitainang2010.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!