Cập nhật nội dung chi tiết về Lỗi Sử Dụng “Còn” Và “Vẫn” Trong Tiếng Việt Của Người Nước Ngoài mới nhất trên website Cuocthitainang2010.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
PGS. TS. Nguyễn Thiện Nam
Khoa Việt Nam học và Tiếng Việt
Trường ĐHKHXH & NV ĐHQGHN
I. Mở đầu:
Lỗi trong quá trình học một ngoại ngữ là một bộ phận cấu thành không thể thiếu trong quá trình hình thành ngôn ngữ của người học ngoại ngữ. Lỗi của người học ngoại ngữ giúp người dạy đánh giá được những giai đoạn phát triển trong quá trình khám phá ngôn ngữ đích của người học, lỗi cũng giúp các nhà sư phạm và soạn sách phát hiện được chiến lược học của người học và giúp người nghiên cứu phát hiện thêm những đặc trưng của ngôn ngữ mà thông qua lỗi của người học, chúng mới được thể hiện rõ ràng hơn. Lỗi trong quá trình học và khám phá tiếng Việt của người nước ngoài cũng mang sứ mệnh như vậy.
Trong bài này, chúng tôi đề cập tới lỗi sử dụng hai từ “còn” và “vẫn” ở cương vị phó từ, bổ nghĩa cho động từ hoặc tính từ; ( Đối với trường hợp “vẫn còn”, chúng tôi đánh giá lượng ngữ nghĩa và cách dùng giống như “vẫn”).
Trong khi khảo sát lỗi, chúng tôi sử dụng một số thuật ngữ của lý thuyết phân tích lỗi (Error analysis) [2] như chiến lược giao tiếp (communication strategy), chuyển di giảng dạy (transfer of training), vượt tuyến (overgeneralization).
II. Một số ý kiến về “còn” và “vẫn”
Đối với “còn” và “vẫn”, nhiều tác giả đã đề cập tới như Trần Trọng Kim [4], Bùi Đức Tịnh [10], Đái Xuân Ninh [6], Nguyễn Anh Quế [8], Hoàng Phê [7], Đỗ Thanh [9]…
Trần Trọng Kim thì không đề cập tới “vẫn” mà chỉ nhắc đến “còn” như sau:
“Khi người ta muốn biểu-diễn cái ý nói về một việc chưa xong hay một thể chưa thay-đổi, hoặc quan-hệ đến một việc khác, thì người ta dùng tiếng trạng tự: còn, hãy còn.
Nó còn ngủ
Bấy giờ nó hãy còn bé, chưa biết gì
Hôm qua lúc tôi đến nó hãy còn ngủ [4, tr.96]
Bùi Đức Tịnh trong “văn phạm Việt Nam thì xếp “còn”, “vẫn” vào nhóm “Trạng-từ biểu-diễn các thời của động-từ và tĩnh-từ”, và ông gọi đây là những trạng-từ đặc biệt (đang, còn, vẫn, hãy còn, đã, rồi, vừa, sắp, sẽ) mà không chỉ ra ngữ nghĩa [10, tr. 106].
Đái Xuân Ninh, trong “Sự hoạt động của từ tiếng Việt” cho rằng:
“Vẫn” biểu thị sự liên tục, kéo dài của động tác mà trước khi nói đã xảy ra. [6, tr.124]
Ví dụ:
Nó vẫn hát
Nó vẫn làm ăn như trước đây
Và cho rằng:
“Còn” là tình thái thời gian xác định động tác của động từ tiếp diễn đến khi nói hoặc đến một lúc nào đó của quá khứ hoặc tương lai.
Ví dụ:
Năm ấy anh ta còn học ở Đại học sư phạm.
Ngày mai chúng ta còn gặp nhau ở đây
“Đang” được thêm vào để nhấn mạnh ý tiếp diễn:
Nó đang còn học
Nó còn đang học. [6, tr.126]
Ta thấy rằng, tác giả đã dùng 2 nhóm từ gần nghĩa để giải thích cho “còn” và “vẫn”: “còn” thì dùng: “tiếp diễn đến khi nói”, “vẫn” thì dùng: sự liên tục, kéo dài của động tác mà trước khi nói xảy ra”. Thực chất tác giả không nêu được sự phân biệt giữa “còn” và “vẫn”.
Đỗ Thanh trong “Từ điển từ công cụ tiếng Việt” cho rằng:
“Còn” dùng để biểu thị sự tiếp diễn của một hành động, trạng thái:
Bố tôi còn làm việc, chưa nghỉ hưu [9, tr.40]
“Vẫn” + biểu thị sự tiếp tục tiếp diễn của một hành động trạng thái tính chất nào đó.
Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân
+ Khi biểu thị ý trái ngược, vẫn ở trong vế nghịch của câu:
Trời mưa, tôi vẫn đi
Chủ nhật và ngày lễ, cửa hàng vẫn mở cửa. [ 9, tr. 230]
Nguyễn Văn Chính [1], trong luận án tiến sĩ ngữ văn có cho rằng “còn” và “vẫn” khác nhau ở chỗ: “còn” có điểm dừng; “vẫn” tiếp tục mãi (không có điểm dừng), chúng tôi thấy rằng đây cũng là một nhận xét khá độc đáo.
III. Khảo sát lỗi dùng “còn” và “vẫn”
Trong một công trình về lỗi ngữ pháp tiếng Việt của người nước ngoài [5], chúng tôi có tình hình cụ thể như sau về “còn” và “vẫn”:
Dùng “còn” trong khi lẽ ra dùng “vẫn”: 25 trường hợp
Dùng thiếu “vẫn”: 5 trường hợp
1. Dùng “còn” trong khi lẽ ra dùng “vẫn”
Ví dụ :
Em đã trở về Úc hai tháng rồi. Bố mẹ, anh chị và các cháu của em còn khỏe. (Anh – A)
Câu được chữa (CĐC): ……. Bố mẹ, anh chị và các cháu của em vẫn khỏe.
Trời mưa nhưng em còn đi học. (Khơ me – K)
CĐC: Trời mưa nhưng em vẫn đi học.
Em có xe máy rồi nhưng em còn đi xe đạp vì em sợ tai nạn. (Nhật – N)
CĐC: Em có xe máy rồi nhưng em vẫn đi xe đạp.
Ở 3 ví dụ trên, sau khi thay “còn” bằng “vẫn” như trong các CĐC, câu tự nhiên hơn và đúng với ý muốn diễn đạt của người học hơn. Quả thật, “còn” và “vẫn” là hai từ vừa có chung nét nghĩa vừa có sự khu biệt nét nghĩa mà rất khó nhận biết. Cho tới nay, chưa có từ điển, sách ngữ pháp nào chỉ ra được sự phân biệt nét nghĩa giữa “còn”và “vẫn” một cách hiển minh. Trong khi đó nếu ta tìm từ tương đương trong các thứ tiếng khác để dịch “vẫn”, “còn” thì hầu như (theo những tiếng mà chúng tôi biết) lại chỉ có một từ để biểu thị hai từ này của tiếng Việt.
Ví dụ tiếng Anh : “vẫn”, “còn”: “still”; tiếng Nhật: “mada”, tiếng Trung Quốc là “hái”, tiếng Pháp là “encore”…, chỉ có tiếng Khơ me, là có thể dịch bằng hai từ “nâute” và”nâu”. Trong lĩnh vực dạy học tiếng, khi một từ của ngôn ngữ A được thể hiện bằng nhiều từ của ngôn ngữ B thì sự phân biệt và nắm bắt nét nghĩa để dùng đúng là rất khó. Ở đây sự phân biệt giữa “vẫn” và “còn” là một sự phân biệt khá tinh tế, có thể cảm nhận được nhưng lại khó trình bày một cách hiển ngôn.
Chúng tôi cho rằng ý kiến của các tác giả đi trước như đã giới thiệu ở phần II của bài này có phần đúng nhưng chưa đủ. Chính cái yếu tố “đủ” mà chúng tôi sắp nêu lên ở đây sẽ góp phần giúp người học hiểu được sự khác nhau giữa “vẫn” và “còn”. Đúng là “vẫn” và “còn” đều cùng chỉ một sự tiếp tục, chưa kết thúc của hành động nào đó. Tuy nhiên, sự phân biệt ở đây theo chúng tôi là: “còn” tại thời điểm phát ngôn chỉ biểu thị một sự tiếp tục của hành động, trạng thái, tính chất mà thôi.
Ví dụ:
Anh ấy còn ngủ.
Tôi còn ở Việt Nam 2 năm nữa.
“Vẫn” tại thời điểm phát ngôn, biểu thị một sự tiếp diễn, chưa kết thúc của hành động, trạng thái (sự tình) nhưng khác “còn” ở chỗ: “vẫn” mang nét nghĩa tình thái mạnh hơn (ý chí của chủ thể), điều quan trọng khi dùng “vẫn”, ta thấy hoặc có thể hình dung ra một sự đối lập của sự tình trước “vẫn” và sau “vẫn”.
So sánh:
Tôi còn ở Việt Nam 2 năm nữa (thông báo bình thường về kế hoạch).
Tôi vẫn ở Việt Nam 2 năm nữa (hàm ý có một sự tình “đối lập” nào đó nhưng việc ở Việt Nam 2 năm nữa là không thay đổi). Khi “vẫn” được dùng, câu có thể có nhiều hàm ngôn đối lập, chẳng hạn, hàm ngôn của câu trên có thể là:
(Dù sao) Tôi vẫn ở Việt Nam 2 năm nữa.
(Dù đã sắp hết tiền) Tôi vẫn ở Việt Nam 2 năm nữa.
(Vợ tôi muốn tôi về nước nhưng) Tôi vẫn ở Việt Nam 2 năm nữa.
(Dù đã giỏi tiếng Việt nhưng) Tôi vẫn ở Việt Nam 2 năm nữa.
Trong lúc đó, “còn” không kèm theo những hàm ngôn như vậy. Có thể thấy rằng ý nghĩa của “vẫn” rộng hơn, “còn” hẹp hơn nên chúng ta chỉ thấy sinh viên mắc lỗi về “còn” mà không thấy sinh viên mắc lỗi dùng nhầm “vẫn” thành “còn”. Bởi vì những trường hợp dùng sau “còn” được thì đều có thể dùng sau “vẫn” mà không sai ngữ pháp, tuy nhiên có thêm ý nhấn mạnh và tạo hàm ngôn mang nghĩa đối lập. Trở lại những câu sai đã dẫn của người nước ngoài, ta thấy ở ví dụ (1) người học viết : “… Bố mẹ, anh chị và các cháu của em còn khỏe” trong khi cần dùng “vẫn khỏe” vì có một sự đối lập giữa một khoảng thời gian đã trôi đi với trạng thái “khỏe” ở đây là không thay đổi, bất chấp những điều kiện khác. Trong khi nếu dùng “còn” thì chỉ có ý nghĩa là một sự miêu tả khách quan về một sự việc, không hàm ý nhấn mạnh. Ví dụ (2) làm cho ta thấy rõ hơn sự khác nhau giữa “còn” và “vẫn” khi biểu thị “ý chí” của chủ thể trong một tình huống khó khăn: “trời mưa” chắc chắn phải dùng “vẫn” chứ “còn” thì không thể biểu thị được ý nghĩa này.
Ví dụ (3) cũng là một sự đối lập giữa “có xe máy” và “đi bộ”. Cũng chính do lý do đặc trưng “đối lập” này nên “vẫn” thường kết hợp với “nhưng” ở trước thành “nhưng… vẫn…” lý do chủ yếu của những lỗi này là do chiến lược giao tiếp và chuyển di giảng dạy, tức là người học đã không được chú ý luyện tập về hiện tượng ngữ pháp này…
2. Dùng thiếu “vẫn”:
Trong tất cả các trường hợp dùng thiếu “vẫn” người học đều dùng mẫu câu:
“Mặc dù/ tuy A nhưng B”.
Ví dụ:
Mặc dù anh ấy bị bệnh nhưng anh ấy – đến trường. (K)
Tuy tôi rất bận nhưng tôi – giúp đỡ chị ấy. (Nhật)
Hai ví dụ trên cho ta thấy người học đã viết theo mẫu câu: “Tuy A nhưng B” và người học có cảm tưởng chắc chắn rằng họ đã viết đúng. Tuy nhiên mẫu câu đó chưa được chi tiết hoá hơn với sự xuất hiện của “vẫn”:
“Tuy/ mặc dù A nhưng B vẫn C”. Cho dù hai câu trên đọc lên không “phản ngữ pháp lắm” do cái cảm giác “Tuy A nhưng B” nhưng người Việt lại không nói như vậy mà phải dùng “vẫn” bởi “vẫn” thể hiện được đặc trưng đối lập giữa A và B. Thậm chí ta có thể bỏ “nhưng” mà không thể bỏ được “vẫn”.
Tuy tôi rất bận, tôi vẫn giúp chị ấy.
Ở trường hợp dùng thiếu “vẫn” này, lý do mắc lỗi theo chúng tôi là do 3 nguyên nhân: Chiến lược giao tiếp, vượt tuyến và chuyển di giảng dạy.
Lý do chiến lược giao tiếp ở chỗ vì mục đích giao tiếp nên người học không ngại tạo nên những câu có thể chưa dám chắc đúng.
Lý do vượt tuyến ở chỗ: người học đã học và sử dụng “nhưng” trong nhiều trường hợp nhưng không có “vẫn”, vì vậy, khi dùng mẫu : “Tuy… nhưng…. vẫn…” thì người học đã bị áp lực của những trường hợp dùng “nhưng” không cần dùng “vẫn” “lấn át”.
Lý do chuyển di giảng dạy ở chỗ: người học ít được chú ý về yếu tố “vẫn” trong mẫu “Tuy/ mặc dù A nhưng… vẫn…”. Quả thực là như vậy, khi dạy cho người nước ngoài kết cấu “ tuy/mặc dù A nhưng B’’, các giáo viên cũng như sách giáo khoa tiếng Việt thường không mấy để ý đến chức năng cũng như nghĩa tình thái của “vẫn” trong kết cấu này.
Kết luận
Tiếng Việt cho người nước ngoài quả đúng là “hòn đá thử vàng của một cách miêu tả ngữ pháp tiếng Việt” như GS Cao Xuân Hạo đã nói [3]. Những lỗi ngữ pháp tiếng Việt của người nước ngoài rõ ràng giúp ta nhìn vào được bản chất của một số hiện tượng ngữ pháp chưa được rõ ràng trong tiếng Việt. Cụ thể ở bài này, từ những lỗi về cách dùng từ “còn” và lỗi dùng thiếu từ “vẫn” của người học, chúng ta đã có thể chỉ ra nét nghĩa giống nhau và khác nhau cơ bản giữa “còn” và “vẫn” và chúng ta có thể hiểu được vì sao người nước ngoài sử dụng sai như vậy để có giải pháp giúp người học khắc phục được lỗi. Đối với sách giáo khoa tiếng Việt cho người nước ngoài, nhất thiết, những sự phân biệt như vậy giữa “còn” và “vẫn”/ “vẫn còn” cần được chú ý và luyện tập qua các loại bài tập chữa câu sai, bài tập lựa chọn, bài tập làm đầy câu…
THAM KHẢO
Nguyễn Văn Chính (2000) Vai trò của hư từ tiếng Việt trong việc hình thành thông báo phát ngôn, Luận án tiến sĩ ngữ văn, ĐHQG Hà Nội
Corder, S.P. (1973) Introducing Applied Linguistics, Penguin.
Cao Xuân Hạo (1995) Tiếng Việt cho người nước ngoài, hòn đá thử vàng của một cách miêu tả ngữ pháp tiếng Việt, Tiếng Việt như một ngoại ngữ, NXB GD, Tp. HCM.
Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm (1940), Việt Nam văn phạm, Hà Nội.
Đái Xuân Ninh (1978) Hoạt động của từ tiếng Việt, NXBKHXH, Hà Nội
Hoàng Phê, chủ biên (2003) Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học & NXB Đà Nẵng.
Nguyễn Anh Quế (1988) Hư từ trong tiếng Việt hiện đại, NXBKHXH, Hà Nội
Đỗ Thanh (2007) Từ điển từ công cụ, NXBGD, Hà Nội.
Bùi Đức Tịnh (1966) Văn phạm Việt Nam, Trung tâm học liệu Bộ Giáo dục (Sài Gòn)
Share this:
Tại Sao Người Việt Lại Sợ Học Tiếng Anh Với Người Nước Ngoài?
Đối với tiếng Anh, cách phát âm cũng như kỹ năng lắng nghe rất quan trọng nhưng khi giao tiếp, bạn cũng cần có ngữ điệu và biểu cảm phù hợp với nội dung và câu nói mình định nói. Bạn có thể học ngữ điệu và biểu cảm trong từng tình huống cụ thể khi nói chuyện với giáo viên Tiếng Anh. Chính vì vậy, khi học tiếng Anh với giáo viên nước ngoài sẽ là cách nhanh nhất để bạn có thể học được ngữ điệu và biểu cảm một cách tự nhiên nhất.
Tâm lý sợ nói sai
Nhiều bạn sinh viên cũng có chung một tình cảnh là học tiếng Anh ở trường thì rất là trôi chảy nhưng khi cần giao tiếp tiếng Anh với người nước ngoài thì chỉ ấp úng được vài câu. Nhiều bạn lại còn ngại không dám nói vì sợ nói sai.
Đã hay đang học tiếng Anh thì ắt hẳn ai cũng đã từng trải qua những cảm giác như ngại hay thậm chí là ngượng khi nói sai, hay cố gắng nói mà người đối diện không hiểu hoặc hiểu sai. Dường như định kiến ăn sâu trong suy nghĩ sinh viên Việt “Đã nói là phải chuẩn” ăn sâu vào từng người Việt học ngoại ngữ. Ai cũng lao vào học trong một vòng hạn chế, nếu có trót bước ra khỏi đó, phát âm sai hay không nói được ngữ điệu bản địa, sẽ lập tức thu về, không dám nói tiếp. Vậy nên từ đó hình thành tâm lý sợ nói sai, ngại giao tiếp.
Cách khắc phục: Khi học nói tiếng Anh với người nước ngoài, lúc đầu có thể bạn sẽ bỡ ngỡ với cách phát âm lạ so với giáo viên người Việt nhưng học viên nên bắt chước cách phát âm, trọng âm, ngữ điệu và cách nối âm khi nói của giáo viên bản ngữ.
Cách khắc phục: Trong lớp học Anh văn giao tiếp với người nước ngoài, hãy nói tiếng Anh hoàn toàn. Điều này vừa giúp bạn rèn luyện phản xạ, quen với việc giao tiếp bằng tiếng Anh, vừa cho bạn cơ hội để giáo viên sửa các lỗi sai. Người Việt Nam có đặc điểm là có thể phát âm chính xác khá nhanh, nhưng khi giao tiếp với người nước ngoài thì họ lại mau quên phát âm mà bị cuốn vào tập trung vào từ ngữ. Lý do chính là vì họ học nhưng không có môi trường để luyện tập nhuần nhuyễn những gì đã học. Để có được môi trường tiếng Anh học viên nên xây dựng cho mình nguyên tắc “Don’t speak Vietnamese in English classes” để ngay từ buổi đầu, bạn sẽ phải tập nghe, nghĩ, hiểu và sử dụng tiếng Anh thường xuyên, đây là cơ hội cho bạn từng bước hoàn thiện các kĩ năng nói tiếng Anh của mình.
QTS – Englishlà chương trình học tiếng Anh với chất lượng hàng đầu, không chỉ giúp bạn học tiếng Anh căn bản cho người mới bắt đầu hiệu quả mà còn giúp bạn có thời gian học tiếng Anh online với giáo viên nước ngoài 24/7, mọi lúc mọi nơi.
QTS – English chương trình tiếng Anh online thế hệ mới với giáo trình hiện đại, cùng đội ngũ giảng viên đại học bản xứ và các Tutor luôn giám sát, đôn đốc việc học sẽ giúp bạn cải thiện trình độ Anh văn của mình một cách tối ưu nhất.
Hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được nhận thêm nhiều ưu đãi từ QTS ngay hôm nay.
Website: https://www.qts.edu.vn/
Hotline: (028) 38 404 505
Địa Chỉ: 86 Phạm Viết Chánh, Phường 19, Quận Bình Thạnh
Tuyển Sinh Lớp “Phương Pháp Giảng Dạy Tiếng Việt Cho Người Nước Ngoài”
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn tuyển sinh khoá đào tạo ngắn hạn cấp chứng chỉ “Phương pháp giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài” như sau:
Người Việt Nam và người nước ngoài có đủ năng lực, có nhu cầu được đào tạo và được cấp chứng chỉ Phương pháp giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài.
Phiếu đăng ký tham gia khóa học (theo mẫu kèm theo); bản sao bằng cử nhân hoặc sau đại học (nếu có); bản sao giấy khai sinh và chứng minh thư nhân dân (hoặc hộ chiếu) ; bản sao thẻ sinh viên (nếu có); 2 ảnh chân dung cỡ 4 x 6 chụp trong vòng 3 tháng trở lại đây, mặt sau ảnh ghi rõ họ tên, ngày sinh, nơi sinh.
Ghi chú : Các loại văn bằng, thẻ sinh viên, giấy khai sinh, chứng minh thư nhân dân (hoặc hộ chiếu) không bắt buộc nộp bản sao có công chứng. Khi nộp hồ sơ, ứng viên mang theo bản gốc để đối chiếu, kiểm tra.
Khoa Việt Nam học và tiếng Việt, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (phòng 27, B7 bis Trần Đại Nghĩa, phường Bách Khoa, quận Hai Bà Trưng. Hà Nội)
Thời gian học: 1,5 tháng, vào tối thứ 4, chiều thứ 7 và chiều chủ nhật hàng tuần
Nhập học (dự kiến): 14h, ngày 23/04/2016 tại Khoa Việt Nam học và tiếng Việt, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (B7 Bis, Trần Đại Nghĩa, phường Bách Khoa, quận Hai Bà Trưng. Hà Nội).
Học phí:
– 4.000.000 đ/khóa học ( bốn triệu đồng)
– Ưu tiên các đối tượng sau:
+ Sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, cộng tác viên đang làm việc tại Khoa Việt Nam học và Tiếng Việt học phí là: 2.500.000 đ/khóa học ( Hai triệu năm trăm ngàn đồng).
+ Sinh viên các trường Đại học khác học phí là 3.000.000 đ/ khóa học (Ba triệu đồng)
– Khoa Việt Nam học và Tiếng Việt, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (B7 Bis, Trần Đại Nghĩa, Bách Khoa, Hai Bà Trưng, Hà Nội). – ĐT: (04). 38694323. Email: vsl@ussh.edu.vn
– Thường trực tuyển sinh: Th.S. Nguyễn Thị Huyền Vân: 0977.899.981 hoặc Th.S. Nguyễn Thị Minh Hạnh: 0904.361.011
Cách Khắc Phục Lỗi Phát Âm Phổ Biến Trong Tiếng Anh Của Người Việt Nam (P.1)
Để phát âm và nói thành thạo một ngôn ngữ luôn là một thử thách lớn cho tất cả người học, đặc biệt đối với tiếng Anh. Cụ thể, đối với người Việt học tiếng Anh, một trong những lý do lớn nhất tạo nên rào cản phát âm tiếng Anh cho người học là sự khác biệt về ngữ điệu, những âm tiết không có trong tiếng Việt. Bài viết sau đây sẽ phân tích sự khác nhau giữa phát âm trong tiếng Anh và tiếng Việt, các rào cản học sinh Việt thường gặp phải và một số hướng khắc phục.
Tổng quan về sự khác nhau giữa phát âm tiếng Anh và phát âm tiếng Việt
Lỗi về phát âm có thể gây ra những hiểu lầm nghiêm trọng trong giao tiếp và các tình huống xã hội. Có rất nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan hình thành nên những rào cản khiến người học Việt Nam không thể phát âm như người bản xứ như:
Loại hình ngôn ngữ
Bản chất của tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn âm (monosyllabic). Nói một cách đơn giản, một từ trong tiếng Việt chỉ được cấu thành một syllable (âm tiết) duy nhất. Từ trong tiếng Việt không bị biến đổi thành hình thái khác khi chuyển sang các mốc thời gian khác nhau.
cách đọc của từ “học sinh” được kết hợp bởi cách đọc của 2 âm “học” và “sinh”.
So sánh 2 câu: Hôm nay, tôi đi học, và Hôm qua, tôi đi học. Mặc dù biểu thị 2 mốc thời gian khác nhau nhưng động từ chính của câu “đi” không có sự thay đổi về hình thái và biến đổi cách đọc.
Khác với tiếng Việt, tiếng Anh là một ngôn ngữ đa âm (polysyllabic). Cách phát âm một từ trong tiếng Anh bao gồm nhiều syllables khác nhau. Cách đọc của từ trong tiếng Anh sẽ bị biến đổi theo hình thái ngữ pháp của câu.
Ví dụ:
từ “general” sẽ được phát âm thành 2 syllable là “gene” và “ral”.
So sánh 2 câu: At the moment, my mom is cleaning the house, và My mom cleans the house every day. Động từ chính của cả 2 câu là clean, đã bị thay đổi về hình thức và cách đọc khi chuyển sang 2 mốc thời gian khác nhau.
Trong tiếng Việt không tồn tại khái niệm trọng âm của từ (word stress). Thay vào đó, tiếng Việt có 6 thanh âm (hay còn gọi là dấu), gồm: thanh bằng (không có dấu), sắc, huyền, hỏi, ngã và nặng. Khi thay đổi dấu của một từ bất kì, từ này sẽ lập tức mang một nghĩa khác và có cách đọc khác.
Ví dụ: từ “hoa” (danh từ): cơ quan sinh sản hữu tính của cây hạt kín, thường có màu sắc và hương thơm; khi thêm dấu huyền sẽ trở thành từ “hoà” (tính từ): công bằng, không bên nào thắng, không bên nào thua.
Trọng âm của từ trong tiếng Anh lại đóng một vai trò quan trọng. Trọng âm của từ là âm tiết được nói to hơn, cao hơn và kéo dài hơn trong từ đó. Trong một số từ, trọng âm quyết định nghĩa của từ. Một từ có hình thức viết giống nhau nhưng nhấn ở trọng âm khác nhau sẽ mang nghĩa hoàn toàn khác nhau.
Ví dụ: từ import có 2 âm tiết là /ɪm/ và /pɔːt/ nếu nhấn âm một /ɪm/ thì IMport sẽ ở dạng danh từ và có nghĩa là ảnh hưởng, hàng hóa nhập cảng; nhưng nếu nhấn âm hai /pɔːt/ thì imPORT sẽ ở dạng động từ và có nghĩa là nhập khẩu.
Quá trình phát âm của tất cả các ngôn ngữ nào đều được cấu thành từ phonemes (âm vị). Theo từ điển Cambridge, phonemes được định nghĩa là “one of the smallest units of speech that make word different from another” – đơn vị nhỏ nhất cấu trúc nên cách phát âm của một từ. Trong tiếng Việt, phonemes xuất hiện dưới 3 dạng chính: tones/tonemes (âm điệu – giọng điệu; ở đây chỉ sự biến âm bởi các thanh và các chữ cái có dấu); consonants (nguyên âm) và vowels (phụ âm). Ngược lại, phonemes của tiếng Anh chỉ bao gồm consonants và vowel.
Tiếng Anh: 24 phụ âm
Tiếng Việt: 30 phụ âm
Tiếng Anh – 3 loại:
Phụ âm vô thanh (8 phụ âm): /p/, /k/, /f/, /t/, /s/, /θ/, /ʃ/, /tʃ/.
Phụ âm hữu thanh (8 phụ âm): /b/, /d/, /g/, /dʒ/, /v/, /ð/, /z/, /ʒ/.
Phụ âm còn lại (8 phụ âm): /m/, /n/, /η/, /h/, /l/, /r/, /j/, /w/.
Tiếng Việt – 2 loại:
Phụ âm đầu (22 phụ âm): /b/, /f/ (ph), /v/, /m/, /t/, /d/ (đ), /th/ (th), /s/ (x), /z/ (d), /n/, /l/, /_/ (tr), /ʃ/ (s), /_/ (gi, r), /c/ (ch), /_/ (nh), /k/ (c, k, q), /γ/ (g), /χ/ (kh), /N/ (ng), /h/, /p/, /r/.
Phụ âm cuối (8 phụ âm): 6 phụ âm: /p/, /t/, /k/, /m/, /n/, /ŋ/ và 2 bán phụ âm (bán nguyên âm): /i/, /u/.
Tiếng Anh
Phụ âm đầu của từ có thể là một phụ âm đơn hoặc cụm phụ âm.
Nếu thêm một phụ âm ở giữa từ sẽ làm thay đổi nghĩa của từ.
Phụ âm cuối của từ tạo ra hiện tượng nối âm trong câu. Dễ gây ra nhầm lẫn cho người nghe nếu bỏ qua phụ âm cuối của từ.
Tiếng Việt
Phụ âm đầu là một phụ âm đơn.
Không có phụ âm ở vị trí giữa từ.
Phụ âm cuối không được phát âm, không gây ra hiện tượng nối âm trong câu.
Tiếng Anh do cơ quan cấu âm: Dental (răng), Alveolar (phế nang), Palatal Alveolar (Phế nang và lưỡi).
Tiếng Việt phát âm dựa vào vào sự thay đổi của vị trí lưỡi: Flat (phẳng), Retroflex (cuốn lưỡi), Dorsal (mặt lưng lưỡi).
Tiếng Anh gồm: Stop (âm tắc, còn gọi là âm bật hơi), fricatives (âm xát), Affricatives (âm tắc-xát), Nasal (âm mũi), Lateral (âm bên), và Approximant (âm tiếp cận).
Tiếng Việt gồm: voice (hữu thanh), voiceless (vô thanh), lateral (rung cạnh lưỡi).
Tiếng Việt: Labial (âm môi), Alveolar (âm lợi), Retroflex (âm cuối lưỡi), Palatal (âm gạc), Velar (âm vòm mềm), Glottal (âm hầu).
Số lượng: 20 nguyên âm
Được chia thành 12 nguyên âm đơn: /i:/, /ɪ/, /e/, /æ/, /ə/, /ɜ:/, /ʌ/, /ɑ:/, /ɒ/, /ɔː/, /ʊ/, /uː/ và 8 nguyên âm đôi: Tận cùng là ə: /ɪə/, /eə/, /ʊə/, tận cùng là ɪ: /eɪ/, /aɪ/, /ɔɪ/, tận cùng là ʊ: /əʊ/, /aʊ/.
Nguyên âm dài được phân biệt với nguyên âm ngắn bằng dấu “:” sau mỗi nguyên âm. Nếu người học không chú ý phát âm đúng độ dài của các nguyên âm sẽ dễ gây ra hiểu lầm cho người nghe.
Cơ quan phát âm : Vị trí của lưỡi (tongue position), độ tròn môi (lip shade), độ căng cơ (muscle tense), độ dài của âm (length).
Số lượng: 56 nguyên âm
Được chia thành 3 loại, gồm:
11 nguyên âm đơn: /a/, /ă/, /â/, /e/, /ê/, /o/, /ô/, /ơ/, /u/, /ư/, /i/ hoặc /y/.
32 nguyên âm đôi: /ai/, /ao/, /au/, /âu/, /ay/, /ây/, /eo/, /êu/, /ia/, /iê/ hoặc /yê/, /iu/, /oa/, /oă/, /oe/, /oi/, /ơi/, /oo/, /ôô/, /ua/, /uă/, /ưa/, /uê/, /ui/, /ươ/, /ưô/, /uo/, /ưi/, ưu/, /uơ/, /uy/.
13 nguyên âm ba: /iêu/ hoặc /yêu/, /oai/, /oao/, /oay/, /oeo/, /uao/, /uây/, /uôi/, /ươi/, /ươư/, /uya/, /uyê/, /uyu/.
Khác với tiếng Anh, trong tiếng Việt không có sự phân biệt rõ ràng giữa nguyên âm dài và nguyên âm ngắn.
Cơ quan phát âm: Vị trí của lưỡi (tongue position) và độ tròn môi (lip shade).
Những lỗi phát âm phổ biến của người Việt Nam
Tác giả Trần Ngọc Dụng (2005) cho rằng: “Âm vị học tiếng Việt có vẻ phức tạp hơn tiếng Anh, nhưng về lâu dài, hệ thống này trở nên đơn giản và dễ tiếp thu hơn tiếng Anh” (as cited in Nguyen, 2007). Về mặt ngữ âm, các âm của tiếng Việt được nhận xét là dễ dàng thành thạo hơn khi người học có nền tảng vững chắc khi phát âm các âm tiết, các thanh trong tiếng Việt. Đó cũng chính là lý do tại sao người Việt thường gặp rất nhiều trở ngại khi học các ngôn ngữ khác như tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, …
Cách phát âm của người Việt được chia thành 2 loại chính là ngữ âm miền Nam và ngữ âm miền Bắc. Bài viết sẽ lấy ngữ âm miền Bắc làm đối tượng để so sánh vì ngữ âm của vùng này được xem là ngữ âm chính thức ở Việt Nam. Bài viết sẽ đề cập tới 3 lỗi sai phổ biến nhất của người Việt trong phát âm và nguồn gốc của chúng.
Lỗi sai về phụ âm
Không phát âm hoặc phát âm sai phụ âm cuối
Như đã phân tích ở phần tổng quan, lỗi không phát âm hoặc phát âm sai phụ âm cuối của người Việt chủ yếu là do số lượng phụ âm cuối trong tiếng Việt chỉ có 8 phụ âm, trong đó có 2 bán phụ âm. Người học Việt Nam thường không phát âm các âm: /f/, /θ/, /ð/, /z/ vì những âm này không có trong tiếng Việt. Mặc dù, người Việt có khả năng phát âm những âm vô thanh như /p/, /t/, /k/ ở vị trí cuối trong từ nhưng với thời lượng cực ngắn gây cản trở cho người bản ngữ khi giao tiếp với người Việt (Nguyen, 2015). Nguyen (2007) đưa ra kết luận về quá trình phát âm phụ âm cuối của đại đa số người học Việt Nam như sau:
Đầu tiên, người học chuyển những phụ âm cuối của từ trong tiếng Anh về một phụ âm quen thuộc trong tiếng Việt.
Tiếp theo, loại bỏ những âm, cụm âm khó phát âm.
Cuối cùng, lượt bỏ final clusters (những cụm phụ âm cuối từ, đứng liền kề nhau).
Quá trình này làm cho phát âm của người học bị Việt hoá, không giống như người bản xứ.
Ví dụ: want (v): muốn, có phiên âm là /wɑːnt/, đa số người học Việt Nam thường bỏ mất phụ âm /t/ ở cuối từ khiến từ want nghe rất giống từ one (n) /wʌn/: số 1
Một số từ trong tiếng Anh còn có cách phiên âm hầu như là tương tự, chỉ khác phụ âm cuối.
Ví dụ: like (v) /laɪk/: thích và life (n) /laɪf/: cuộc sống; có phiên âm gần như là tương tự nhau chỉ khác phụ âm cuối là /k/ và /f/. Nếu người học bỏ qua, không đọc phụ âm cuối, người nghe hoàn toàn có thể hiểu từ này theo 2 cách hiểu khác nhau.
Phân biệt giữa phụ âm hữu thanh (voiced) và âm vô thanh (voiceless)
Tiếng Việt không có sự phân chia rõ ràng giữa phụ âm vô thanh và phụ âm hữu thanh. Đối lập với tiếng Việt, phụ âm hữu thanh và phụ âm vô thanh đóng một vai trò rất quan trọng trong tiếng Anh. Việc phát âm sai phụ âm hữu thanh và âm vô thanh sẽ gây ra hiểu lầm nghiêm trọng về mặt ngữ nghĩa của từ.
Nhầm lẫn giữa phụ âm /θ/ và /t/
Cả /θ/ và /t/ đều là 2 phụ âm vô thanh. Tuy nhiên, phụ âm /t/ là âm bật hơi (stop consonant) còn phụ âm /θ/ là âm xát (fricative consonant); người học Việt Nam có xu hướng sẽ phát âm là /t/ đối với tất cả các từ nào có phụ âm /θ/ vì trong tiếng Việt không tồn tại âm xát. Hiện tượng này thường xuyên xảy ra là do trong tiếng Việt, có âm /th/ gần giống với âm xát /θ/ được người Việt Nam phát âm như âm /t/ nhưng gằn giọng hơn.
Ví dụ: phiên âm của của từ three (n): số 3 là /θriː/, nếu đọc từ này với phụ âm đầu là /t/, người bản xứ sẽ hiểu đây là từ tree (n) /triː/: cái cây.
Nhầm lẫn giữa phụ âm /s/ và /z/
Có 2 vấn đề đáng chú ý khi bàn về sự nhầm lẫn giữa âm /s/ và âm /z/:
Phụ âm /z/ là một trong những phụ âm thường được người học Việt Nam phát âm sai nhất (Nguyen, 2015). Giống như /θ/, /z/ là một âm tắc xát vô thanh, không có trong tiếng Việt. Thay vì đọc là /z/, người học sẽ tự chuyển sang âm /s/, dễ phát âm hơn và quen thuộc hơn.
Ví dụ: dream (n) /driːm/: giấc mơ, khi ở dạng số nhiều là dreams sẽ có phiên âm /dri:mz/ chứ không phải là /dri:ms/ như một số người học vẫn hay lầm tưởng.
Sự dư thừa âm /s/: m /s/ thường được sử dụng nhiều trong tiếng Anh, nhất là ở vị trí cuối của danh từ số nhiều, động từ trong thì hiện tại. Một số người học Việt Nam có hiện tượng lạm dụng âm /s/ này quá nhiều, trong cả các danh từ và tính từ không đếm được.
Ví dụ: money là danh từ không đếm được, khi người học muốn phát âm cụm từ a lot of money: có rất nhiều tiền, người học có thể mắc phải lỗi thêm “s” vào sau từ money, là a lot of moneys.
Nhầm lẫn giữa các phụ âm /p/, /f/ và /b/
Không có từ nào trong tiếng Việt được bắt đầu bằng một âm vô thanh bật hơi như /p/. Do đó, khi gặp những từ trong tiếng Anh bắt đầu bằng âm /p/, người học sẽ tự đổi từ đó thành âm bật hơi hữu thanh /b/ hoặc âm xát hữu thanh /f/.
Ví dụ: từ pool (n) /puːl/ bắt đầu bằng âm /p/ và dễ bị nhầm lẫn với cách đọc của từ fool (n) /fuːl/: đồ ngốc, hoặc boll (n) /boʊl/: quả bông
Một số vấn đề phát âm xoay quanh phụ âm /s/
Theo một nghiên cứu của Nguyen (2007), phụ âm /s/ được thêm vào cuối các từ có dạng CVC (Consonant – Vowel – Consonant), thường xuyên bị bỏ qua.
Ví dụ: trong câu “Every morning, she sits at the back of the class”. Động từ sit (v) /sɪt/: ngồi, trong câu đang ở thì hiện tại đơn có dạng là sits, phát âm đúng là /sɪts/. Âm /s/ ở cuối từ sits ở câu này thường xuyên bị lược bỏ thành /sɪt/ trong quá trình giao tiếp của học sinh người Việt. Đặc biệt là đối với các học sinh đang bắt đầu học tiếng Anh.
Tương tự /s/, Nguyen (2007) cũng cho rằng, các từ kết thúc bằng phụ âm /t/ cũng thường bị bỏ qua như phụ âm /s/.
Ví dụ: trong câu “She always wants to have a beautiful doll.” Động từ want (v) /wɑːnt/ trong câu này cũng ở thì hiện tại đơn với dạng wants, có phát âm là /wɑːnts/ chứ không phải là /wan/.
Lỗi sai về nguyên âm
Từ bảng so sánh ở phần tổng quan, dễ dàng thấy được rằng sự đa dạng của hệ thống nguyên âm trong tiếng Việt. Số lượng diphthongs (nguyên âm đôi) và triphthongs (nguyên âm ba) trong tiếng Việt vượt trội hơn hẳn (tiếng Anh). Tuy nhiên, trong tiếng Việt chỉ có 11 nguyên âm đơn thuần tuý: a/, /ă/, /â/, /o/, /ô/, /ơ/, /e/, /ê/, /u/, /ư/, và /i/. Vị trí của các nguyên âm tiếng Việt trong một từ là không cố định, một số nguyên âm vẫn có nghĩa khi đứng riêng một mình. Việc học các nguyên âm đôi và nguyên âm ba của tiếng Việt cũng không khó vì nó là sự kết hợp qua lại của các nguyên âm đơn.
Nhầm lẫn giữa nguyên âm /i:/ và /ɪ/
Dựa theo kinh nghiệm giảng dạy tiếng Anh được tác giả Nguyễn Tiến Dũng (2015) chia sẻ lại, hầu như tất cả các học sinh của ông đều không thể phân biệt được cặp nguyên âm này.
Ví dụ: Các cặp từ hay bị phát âm sai:
need /ni:d/ (v): cần – knit /nɪt/ (v): đan
read /ri:d/ (v): đọc – rid /rɪd/ (v): phóng thích
leave /li:v/ (v): rời khỏi – live /lɪv/ (v): sống
seat /si:t/ (n): chỗ ngồi – sit /sɪt/ (v): ngồi
Nhầm lẫn giữa nguyên âm /ʊ/ và âm /uː/
Nguyên âm /ʊ/ được phát âm giống với nguyên âm /u/ trong tiếng Việt. Trong khi đó, nguyên âm /u:/ thì có cách phát âm tương tự nguyên âm /oo/. Trong tiếng Anh lại có rất nhiều từ được viết với dạng “oo” ở chính giữa và có thể được phát âm là /ʊ/ hoặc /u:/. Điều này gây ra sự bối rối cho người học Việt Nam khi nhìn vào dạng hình thái của từ và không biết phải phát âm theo âm nào mới đúng.
Ví dụ: từ good (adj): tốt, có cặp nguyên âm “oo” ở dạng hình thái nhưng lại được phiên âm là /ɡʊd/.
Nhầm lẫn giữa nguyên âm /e/ và /æ/
Sự nhầm lẫn giữa nguyên âm /e/ và nguyên âm /æ/ là lỗi sai nghiêm trọng nhất của học người học Việt khi học tiếng Anh. Hầu như tất cả các người học Việt Nam khi bắt đầu học tiếng Anh đều không thể phân biệt được sự khác biệt giữa 2 âm này (theo Avery và Ehrlich, 1992; as cited in Nguyen, 2015).
Xác định sai trọng âm của từ
Tác giả Luu (2019), cho rằng có 3 nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng xác định sai trọng âm của từ ở người học Việt Nam.
Thứ nhất, như đã phân tích ở phần tổng quan, tiếng Việt và tiếng Anh thuộc 2 loại hình ngôn ngữ khác nhau. Các từ trong tiếng Anh có thể là đơn âm hoặc đa âm trong khi các từ trong tiếng Việt đều là từ đơn âm. Thói quen của người học Việt khi nói tiếng Việt gây ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng phát âm tiếng Anh của họ. Điều này giải thích tại sao những người học càng lớn tuổi, họ càng khó tạo ra trọng âm từ chính xác hơn những người học ở độ tuổi khác.
Thứ hai, cách học tiếng Anh chủ yếu của học sinh Việt Nam là thông qua các bài học ở trường, nơi các giáo viên thường tập trung vào từ vựng và ngữ pháp nhằm giúp học sinh vượt qua kỳ thi THPT và kỳ thi vào đại học. Các kỳ thi này chỉ kiểm tra kiến thức về ngữ pháp tiếng Anh hoặc kỹ năng đọc hiểu của học sinh, chứ không phải kỹ năng nghe hoặc nói của họ. Do đó, sinh viên Việt Nam không có cơ hội học nhiều về trọng âm của từ. Dẫn đến không thể tạo ra trọng âm chính xác hoặc chỉ ra được đâu là trọng âm trong các từ tiếng Anh.
Thứ ba, có vô số các quy tắc về trọng âm trong tiếng Anh, những quy tắc này làm cho người học tiếng Anh bị bối rối. Bên cạnh đó, mỗi quy tắc đều có một số ngoại lệ, làm cho việc xác định trọng âm trở nên khó khăn hơn.
Kinh nghiệm phòng thi rất quan trọng và thi thử là cách rất tốt để tích lũy kinh nghiệm. Đề thi IELTS tại ZIM rất sát đề thi thật, đánh giá trình độ chính xác, nhận kết quả ngay sau khi thi, và phần thưởng 1.000.000đ cho giải nhất ….
Vậy làm thế nào để khắc phục những khác biệt về phát âm giữa tiếng Anh và tiếng Việt, cũng như cải thiện khả năng phát âm cho người học tiếng Anh? Mời bạn đọc đón xem tiếp phần sau của series ” Các lỗi phát âm phổ biến trong tiếng Anh của người Việt Nam và cách khắc phục “.
Bùi Hoàng Phương Uyên
Bạn đang đọc nội dung bài viết Lỗi Sử Dụng “Còn” Và “Vẫn” Trong Tiếng Việt Của Người Nước Ngoài trên website Cuocthitainang2010.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!