Đề Xuất 6/2023 # Phương Pháp Tự Học Môn Địa Lý Tự Nhiên Việt Nam # Top 9 Like | Cuocthitainang2010.com

Đề Xuất 6/2023 # Phương Pháp Tự Học Môn Địa Lý Tự Nhiên Việt Nam # Top 9 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Phương Pháp Tự Học Môn Địa Lý Tự Nhiên Việt Nam mới nhất trên website Cuocthitainang2010.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

1. Thực trạng và nguyên nhân

Hiện nay các bạn tự học môn địa lý tự nhiên Việt Nam như thế nào?

Các bạn hãy xem thử vài kết quả khảo sát.

Qua kết quả khảo sát 50 bạn sinh viên khóa 30 ta thấy kết quả học tập khá chênh lệch. Các bạn đạt điểm khá giỏi tương đối cao. Tuy nhiên các bạn lại cho biết sau khi thi lượng kiến thức còn lại đối với các bạn chưa tương xứng với tỷ lệ điểm trên. Hầu như các bạn quên kiến thức rất nhanh, đến học phần 2 này thì ” coi lại những bài của học phần 1 cứ như mới”- đó là một điều đáng lo ngại, nếu cứ tiếp diễn ta sẽ không thể có đủ kiến thức để dạy tốt trong tương lai cũng như việc tự giải thích các hiện tượng tự nhiên xãy ra mà mình quan tâm.

Tại sao không thể nhớ lâu? Đó chủ yếu là do chưa hiểu sâu

Vậy tại sao chưa hiểu sâu? Do cách học, động cơ- ý thức học của mỗi người và do cách truyền đạt kiến thức của giảng viên ư?

Thứ nhất: Ý thức học tập. Một số bạn học tập chủ yếu với tinh thần thi trước nhất, sau đó mới hiểu thêm về kiến thức mình học, điều này đã phần nào hạn chế ý thức tự học của các bạn. Theo kết quả khảo sát có đến 65,4 % các bạn chỉ thỉnh thoảng mới học Địa Lí Tự Nhiên Việt Nam và các bạn chỉ học trước khi thi vài ngày; 22,8 % các bạn học thường xuyên, số còn lại thì không biết học lúc nào.

Chỉ có 22,8 % các bạn được khảo sát là học thường xuyên, như vậy ta thấy ý thức tự học của các bạn là chưa cao. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng kiến thức thu được.

Các bạn chưa phát huy hết hiệu quả cách học, hầu như các bạn chưa kết hợp được các cách học với nhau. Các bạn học thuộc khi thi có kết quả cao, nhưng sau đó kiến thức cũng ra đi rất nhanh. Các bạn tự học riêng lẻ bằng bản đồ, hiểu và nhớ, học nhóm lại có kết quả không cao lắm (đa số đạt điểm 5,6,7. Do các bạn chưa hiểu hết bản đồ nên chưa khai thác triệt để kiến thức trên bản đồ, còn các bạn học hiểu và nhớ nhưng chưa có cách hệ thống lại bài, nhiều kiến thức buộc phải nhớ chính xác thì không nhớ được nên làm bài lan man, thiếu trọng tâm. Kiến thức giữ được thì độ chính xác không cao lắm.

Tuy nhiên trong học phần hai này giảng viên đã có sự thay đổi về phương pháp giảng dạy, điều này phù hợp với nguyện vọng của sinh viên, giúp cho sinh viên tự đào sâu kiến thức hơn và không sợ kiến thức bị hổng, sai vì đã có giảng viên chuẩn kiến thức lại.

Theo khảo sát cách truyền đạt này ( hướng dẫn cho sinh viên tự khai thác, sau đó chuẩn lại kiến thức) được 59,1 % ý kiến đồng tình, cao hơn rất nhiều so với cách truyền đạt cung cấp toàn bộ kiến thức (11,4% đồng ý) và sinh viên tự khai thác hoàn toàn, không có sự hướng dẫn, chỉ kiểm tra kết quả.

Cũng trong đợt khảo sát 75,8 % các bạn chưa hài lòng với cách học và kết quả đạt được của bản thân. 21,2 % hài lòng và 3 % chưa hài lòng lắm. Và khi được hỏi là nếu có một phương pháp tự học phù hợp các bạn có quyết tâm thực hiện không thì có đến 90,6 % đồng ý áp dụng.

Như vậy ta thấy các bạn luôn mong muốn tìm ra một cách học phù hợp, đem lại kết quả cao trong học tập.Giải pháp đó là gì?

Trên 60% các bạn đồng ý rằng nếu học kết hợp bản đồ và hiểu nhớ cũng như học thuộc lòng nhưng chỗ cần thiết là cách học hiệu quả nhất.

“Vừa xem bản đồ, vừa sử dụng tài liệu, chỗ quan trọng cần nhớ nhất thì học thuộc lòng” , Đó là ý kiến của bạn được 9 điểm duy nhất trong kỳ thi vừa qua.

Và một số ý kiến khác của các bạn như:

Như vậy ta thấy hầu hết các bạn đều chọn cách kết hợp nhiều phương pháp, nhấn mạnh phương pháp kết hợp học trên bản đồ và đọc hiểu tài liệu, hệ thống kiến thức. Chúng tôi rất đồng tình với phương pháp này và xin được bổ sung thêm một vài phương pháp đối với môn địa lí tự nhiên Việt Nam như sau

Mức độ cuả việc tiếp thu, khắc sâu kiến thức phụ thuộc vào động cơ học tập, ý thức học tập và phương pháp học tập của mỗi cá nhân.

Để học tốt môn Địa Lí Tự Nhiên Việt Nam bạn cần phải tự hỏi mình xem: Mình học môn này để làm gì? Học để biết? Để dạy? Hay học để hiểu tường tận những kiến thức, sự vật, hiện tượng của địa lý tự nhiên Việt Nam rồi áp dụng vào cuộc sống, ứng dụng để làm kinh tế, giải thích các hiện tượng, để nghiên cứu xây dựng đất nước sau này? Hay chỉ cần học để thi?

Nếu muốn thi hết học phần với kết quả cao bạn cần có phương pháp học tập khoa học, hợp lý.

Chương trình Địa lý 12 cải cách có rất nhiều kiến thức địa lý tự nhiên Việt Nam phần phân vùng, nếu chúng ta không hiểu thật sâu thì rất khó truyền đạt cho học sinh một cách ngắn gọn, súc tích, chính xác và khoa học. Lúc đó học sinh sẽ nhận xét về bạn như thế nào nhận xét của học sinh ảnh hưởng rất lớn tới chúng ta và cách dạy của chúng ta ảnh hưởng đến nhận xét của học sinh

Không chỉ học để dạy mà chúng ta còn cần phải có kiến thức để khi một ai đó vô tình hỏi thì chúng ta có thể trả lời tốt. Ví dụ như khi có người hỏi bạn ở Việt Nam có thể ngắm tuyết ở đâu? Nên đi đâu để có thể cảm nhận được cảm giác ” Lạnh cong xương sống, lạnh cóng xương sườn, lạnh nằm trên giường, lành lăn xuống đất, hai tay ôm chắc vẫn còn lạnh căm” của gió Bấc mùa đông thì bạn sẽ trả lời như thế nào? Liệu bạn có làm cho người ta thất vọng không?

Bạn đặt ra hàng loạt câu hỏi với nhiều tình huống khác nhau bạn sẽ thấy được tầm quan trọng của việc học, hiểu địa lí tự nhiên quê mình là như thế nào, để rồi tạo nên một động lực thúc đẩy bạn tìm tòi, học hỏi, tự giác trong học tập tốt hơn.

Phương pháp học hợp lý, khoa học và cụ thể là một giải pháp tốt để bạn tiếp cận và hiểu sâu sắc bất cứ kiến thức nào. Tuỳ đặc điểm môn học và từng cá nhân mà có những phương pháp riêng.

Đối với môn điạ lí tự nhiên Việt Nam có một số phương pháp nếu áp dụng tích cực thì sẽ rất hiệu quả.

Bản đồ, lược đồ ( trong giáo trình địa lý tự nhiên Việt Nam của tác giả Vũ Tự Lập là các sơ đồ) là một bộ phận quan trọng của địa lí nói chung và của địa lí tự nhiên Việt Nam nói riêng. Khai thác kiến thức từ bản đồ giúp bạn nhớ lâu, hiểu sâu hơn chỉ học thuộc lòng và đọc trong sách.

Ví dụ đối với chương Địa chất trong học phần I bạn chỉ đọc giáo trình mà không hề nhìn lược đồ thì sẽ không nhớ rõ có những địa tào, địa khối nào và đi từ đâu đến đâu…song khi kết hợp kiến thức trong giáo trình với lược đồ, sơ đồ để xác định thì sẽ hiệu quả hơn.

Từ giáo trình, tài liệu, ta lập ra một dàn ý sau đó kết hợp khai thác kiến thức trên lược đồ, bản đồ để hoàn thiện dàn ý đó.

Ví dụ khi khai thác kiến thức phần địa hình vùng Hoà Bình – Thanh Hoá, bạn xem sơ đồ trang 113 giáo trình địa lý tự nhiên Việt Nam tập 2( Vũ Tự Lập) theo sườn bài của mình: Địa hình có những đặc điểm chung nào? Có những dạng địa hình chình nào, có đặc điểm gì, phân bố ở đâu….? Các bạn chú ý phải chỉ rõ khu vực phân bố nếu không bạn sẽ không nhớ và kỹ năng chỉ bản đồ, đọc bản đồ không nhuần nhuyễn, sẽ khó khăn khi đi dạy sau này.

Bản đồ là nguồn cung cấp kiến thức rất lớn cho chúng ta và là phương tiện để học và dạy rất tốt. Nó sẽ giúp bạn phát huy thế mạnh của cách học hiểu, giảm tải lượng kiến thức phải nhớ. Tuy nhiên những số liệu chính xác bạn vẫn phải học thuộc.

Đặc điểm của đối tượng khai thác ( địa chất, địa hình, khí hậu, thuỷ văn…) như thế nào? Nó phân bố ở đâu? Tại sao lại phân bố ở đó? Với những đặc điểm như vậy thì có ảnh hưởng đến các thành phần tự nhiên khác và ảnh hưởng như thế nào tới sự phát triển kinh tế?…

Đó chỉ là một vài câu hỏi để khai thác theo sườn bài. Để hiểu sâu và nhớ lâu bạn phải liên tục đặt những câu hỏi cho phần bài học của mình, đặt câu hỏi với chính những kiến thức mình có để có thể giải quyết tường tận và hiểu sâu sắc.

Những câu hỏi “Tại sao?”, “Như thế nào?”, “ở đâu?”, “cái gì?”… luôn cần thiết. Ví dụ: Phù sa trong đê ở vùng đồng bằng Bắc bộ phân bố ở những khu vực nào? Tính chất của nó là gì? Tại sao lại có tính chất như vậy? Bạn không nên chỉ đọc suông ” Đồng Bằng Sông Hồng địa hình tương đồi bằng phải, thỉnh thoảng có những gò sót” mà phải tự hỏi thêm “Tại sao giữa vùng Đồng Bằng Bắc Bộ bằng phẳng lại có những gò sót?” Tại sao? Tại sao? Và tại sao?…

Bạn phải tự đặt câu hỏi và tự suy nghĩ tìm câu trả lời, có động não suy nghĩ bạn mới có thể mổ xẻ, khoét sâu và khắc sâu vấn đề

Có sự chuẩn bị kỹ càng, nghiêm túc thì kết quả thu được cũng khá tốt. Đặc biệt cuối mỗi phần trình bày thầy cón chuẩn lại kiến thức nên cũng hiểu rõ vấn đề hơn.

Tuy nhiên nếu cách này không được áp dụng với tinh thần nghiêm túc thì một số bạn sẽ hổng kiến thức nhiều hơn do không chịu trao đổi mà chỉ nghe các bạn khácnói, làm việc nhóm thì có bạn làm, có bạn không thèm quan tâm, kiến thức hổng trầm trọng hơn.

Học nhóm trước khi thi vô cùng cần thiết nhưng chúng tôi đặc biệt lưu ý: các bạn phải tự giác và có trách nhiệm với việc học của mình thì mới có thể có kết quả cao.

Giúp các bạn sắp xếp các kiến thức một cách khoa học, hợp lý, dễ nhớ. Sau mỗi bài hoặc mỗi chương bạn nên vẽ thành những sơ đồ để có thể nắm vững kiến thức. Trong khi vẽ sơ đồ bạn phải lược bỏ những từ không cần thiết, khi đó bạn sẽ nắm được những kiến thức trọng tâm. Hệ thống chương thổ nhưỡng:

Đây là cách học khá tốn thời gian nên bạn phải cân đối thời gian để thực hiện tốt. Hệ thống ngay trên lớp hoặc ngay trong quá trình học mới hiệu quả, để càng lâu thì vừa không có thời gian, vừa quên kiến thức, tới cận ngày thi sẽ không có thời gian chuẩn bị. Bạn phải tự hệ thống vì kiến thức sẽ được khắc sâu trong quá trình bạn hệ thống, nếu học theo sơ đồ của bạn khác soạn hiệu quả sẽ không cao, giống như một người soạn giáo án, một người dạy không thể truyền đạt hết ý tưởng.

Ngoài các sơ đồ bạn có thể tự làm các mô hình đơn giản, trực quan để học tốt và làm đồ dùng dạy học sau này luôn.

Ví dụ mô hình thổ nhưỡng hay sinh vật của Việt Nam phân theo độ cao, mô hình các đai địa chất… có thể dùng xốp và bìa cứng để làm, cách này tốn thời gian, các bạn có thể làm từng phần nhỏ sau đó ghép lại hoặc nhiều bạn cùng làm nếu có thể.

Với mô hình các đai địa chất bạn có thể làm như sau:

Bước 1: photo lược đồ câm khổ tuỳ ý – bạn có thể tự vẽ nếu có thời gian, Sau đó dán lên bìa cứng

Bước 2: Phác hoạ các đai địa chất trên lược đồ

Bước 3: Lấy bìa cứng cắt các đai địa chất rời, dán keo hai mặt để có thể thào rời dễ dàng.

Học đến từng vùng bạn sẽ gắn từng đai địa chất vào lược câm đã chuẩn bị xem xét mối tương quan giữa các đai, các vùng và qua đó đánh giá ảnh hưởng của nó tới các yếu tố khác.

Đây chỉ là một ví dụ, bạn có thể làm nhiều mô hình khác.

Mỗi bạn có những điều kiện khác nhau, thời gian biểu khác nhau…nên không thể có một kế hoạch chung nhất. Bất kể điều kiện như thế nào bạn cũng phải lập cho mình 1 kế hoạch học tạp hợp lý.

Kế hoạch đó không chỉ riêng cho môn Địa lý tự nhiên Việt Nam nên không sợ cạnh tranh thời gian, kết hợp học với các môn khác bạn sẽ học tốt hơn môn này.

Phương pháp dù hay như thế nào nó cũng chỉ là lý thuyết nếu bạn không quyết tâm thực hiện. Đây cũng chính là điều chúng tôi đã lưu ý với các bạn ngay lúc đầu.

“Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng!”

Các phương pháp trên bước đầu chúng tôi chỉ nghiên cứu với môn Địa lý tự nhiên Việt Nam, nhưng các bạn có thể biến đổi phù hợp đối với các môn khác. Thiết nghĩ nó có thể giúp ích cho các bạn.

Thật sự kết quả học tập môn Địa lý tự nhiên Việt Nam của chúng tôi không phải cao và kiến thức tự nhiên cũng đang còn thấp, đề tài xuất phát từ nhu cầu của mình với quyết tâm muốn cải thiện kết quả học tập, kiến thức, để có thể dạy tốt sau này.

Đây cũng là những gì chúng tôi muốn gửi đến các bạn thông qua bài nghiên cứu khoa học nhỏ này. Hy vọng các bạn sẽ thành công hơn trên con đường đến với tri thức.

Chân thành cảm ơn Thầy Đoàn Ngọc Nam và các thầy cô giáo trong khoa Địa Lý đã tạo điều kiên giúp đỡ chúng tôi hoàn thành bài nghiên cứu của mình. Cảm ơn các bạn sinh viên khoa Địa Lý đã nhiệt tình hợp tác.

Phương Pháp Dạy Học Quan Sát Các Môn Tự Nhiên &Amp; Xã Hội

Trong cuộc sống thường ngày mọi vật đều sinh sôi và phát triển dựa vào những nguyên lý mà đã tồn tại từ rất lâu. Không phải ngẫu nhiên mà cha ông ta có nhiều kinh nghiệm về thời tiết, mùa màng để áp dụng vào việc trồng trọt của mình hay có những kinh nghiệm để chữa bệnh bằng nhiều cách thức khác nhau như dùng thuốc bằng các loại thảo mộc hay một số bộ phận của các con côn trùng, … tất cả là nhờ vào quá trình quan sát qua một thời gian dài mà đúc kết được những kinh nghiệm đó. Chính vì thế, ngày nay phương pháp dạy học quan sát được đưa vào giảng dạy rất phổ biến đặc biệt ở cấp tiểu học khi mà các em đang còn rất muốn khám phá thế giới xung quanh thông qua sự quan sát và tìm tòi để học hỏi hơn là chỉ ngồi ở lớp lắng nghe giảng lý thuyết. Để cho các bạn có cái nhìn đúng và áp dụng thành công phương pháp dạy học quan sát này chúng tôi sẽ chia sẽ rõ hơn trong bài viết sau đây.

Thông thường khi nhắc đến việc quan sát chắc có lẽ nhiều người sẽ nghĩ là hành động nhìn của mắt để nhận biết hay trải nghiệm một sự vật, con vật, sự việc nào đó. Nhưng không hẳn vậy, đối với phương pháp học quan sát này thì người hướng dẫn (giáo viên, giảng viên,…) sẽ hướng dẫn người học dùng các giác quan của mình để cảm nhận về những sự vật hay hiện tượng đưa ra. Hiện tượng đó là những gì xung quanh cuộc sống hàng ngày, có thể là về tự nhiên hay xã hội với mục tiêu cuối cùng giúp người học rút ra tổng kết hay kết luận một cách khoa học nhất.

Tại các bậc học như ở mẫu giáo hay tiểu học thì có thể thấy việc áp dụng phương pháp quan sát này vào giảng dạy rất nhiều. Với nhiều lý do có thể nhắc đến như sau:

– Các học sinh khi còn nhỏ đặc biệt là ở cấp 1 thì tư duy về hình ảnh cũng như trực quan sinh động sẽ rất chiếm ưu thế, nên việc sử dụng phương pháp dạy quan sát trong quá trình giảng bài sẽ đem lại hiệu quả cao nhất có thể.

– Việc học bằng phương pháp này còn mang lại khả năng sáng tạo, dần hình thành trong tư duy những định nghĩa, khái niệm đúng đắng nhất của mỗi học sinh đối với những gì quan sát, cảm nhận được thông qua mỗi buổi được học cùng phương pháp này.

– Bên cạnh đó phương pháp dạy học quan sát sẽ giúp các em luyện tập được năng lực quan sát của bản thân, nâng cao tư duy và mở mang được rất nhiều kiến thức mới mà sách vở không thể nào truyền tải được hết tất cả mà nhờ vào quá trình quan sát mới có thể có đầy đủ được.

– Không chỉ vậy việc thực hiện đúng theo phương pháp dạy học thông qua quan sát sẽ đem lại sự dễ dàng hơn cho các em trong nhiều môn học khác nữa.

– Nhờ đó khi mà các tiết học được người hướng dẫn đưa phương pháp này vào phần bài giảng của mình thì sẽ có một điều chắc chắn rằng sẽ thu hút sự tập trung, chú ý rất nhiều của các em, qua đó chất lượng của buổi học sẽ tăng lên cao hơn.

Trên thực tế, ai ai cũng biết được tầm quan trọng của việc học lý thuyết phải cần song song với thực hành thì mới có thể tiến bộ nhanh chóng được. Trong công cuộc xây dựng những mầm xanh tương lai của đất nước thì luôn đòi hỏi những người làm nghề hướng dẫn các em phải luôn đổi mới và áp dụng những phương pháp hiệu quả nhất. Đặc biệt trong môn học Tự nhiên và Xã hội thì các đối tượng học của môn này lại phù hợp nhất để áp dụng phương pháp dạy học quan sát này.

Các đối tượng thường được chia làm hai dạng chính là đối tượng quan sát bên trong và đối tượng quan sát bên ngoài. Bên trong có thể kể đến các vật như: các mẫu vật phẩm, mô hình, tranh, ảnh, các tiêu bản, đồ dùng trong nhà, … Còn bên ngoài như: nhà, cây cối, động vật, sông, suối, biển, …

– Đầu tiên, cần đưa ra mục tiêu muốn đạt được thông qua quá trình quan sát, ví dụ như bạn muốn giới thiệu các em biết về chức năng của lá đối với cây.

– Tiếp theo, cần đưa đến quyết định lựa chọn đối tượng để các em có thể quan sát được. Trong ví dụ trên bạn nên lựa chọn một cái cây có nhiều lá ở bên ngoài môi trường tự nhiên.

– Khi đã lựa chọn xong đối tượng cần quan sát thì sẽ tiến hành đến bước cho các em quan sát đối tượng. Trong bước này cần chú ý về việc tổ chức quan sát sao cho đạt hiệu quả như phân chia các em làm việc theo nhóm để có thể trao đổi chung với nhau những gì mình quan sát được.

– Cuối cùng là phần thu hoạch những gì các em quan sát được, để tìm ra được mục tiêu là xem chức năng của lá đối với quan trọng như thế nào? Liệu chuyện gì sẽ xảy ra khi một cái cây không có lá hoặc lá bị vặt hết? Người hướng dẫn nên cùng các em đưa ra những quan điểm và chốt lại vấn đề, sau đó báo cáo những gì mình quan sát được từ đó suy luận ra nhiều kiến thức khoa học thú vị.

Qua phần chia sẻ trên chúng tôi đã phần nào cho các bạn thấy được tầm quan trọng của việc áp dụng phương pháp dạy học quan sát cho các em đặt biệt là những bé đang ở bậc tiểu học. Rất mong muốn thầy cô hoặc gia đình có thể áp dụng thành công phương pháp này để giúp các em ngày một học tập tốt hơn, đem lại nhiều niềm tự hào cho gia đình và xã hội.

Trao Đổi: Phương Pháp Tự Học Tốt Các Môn Lý Luận

Dạy và học là hai quá trình nằm trong một thể thống nhất biện chứng. Thầy dạy – trò học, dạy như thế nào sẽ có cách học tương ứng. Thực tế giảng dạy chúng tôi nhận thấy rằng không thể phát huy được tư duy sáng tạo của sinh viên, với tính chủ động cao trong học tập khi giảng viên sử dụng phương pháp dạy học nặng về truyền thụ kiến thức.

Trong dạy học theo hệ thống tín chỉ, nhất thiết phải chuyển từ kiểu dạy học tập trung vào vai trò của giảng viên và hoạt động dạy sang kiểu tập trung vào vai trò của sinh viên và hoạt động học. Giảng viên không còn đóng vai trò là người truyền đạt kiến thức mà là người gợi mở, hướng dẫn, tổ chức, cố vấn cho các hoạt động tự học của sinh viên.

Các môn Lý luận chính trị góp phần hình thành, bồi dưỡng cho sinh viên thế giới quan, phương pháp luận khoa học, trang bị những kiến thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng ta, góp phần định hướng suy nghĩ, hành động và hoàn thiện nhân cách cho thế hệ trẻ. Vì vậy, sinh viên đến lớp không phải để nghe những lời diễn giảng một chiều mang tính chủ quan nhất định từ người dạy, mà qua những kiến thức đó, sinh viên nhận thức, đánh giá và vận dụng vào thực tiễn như thế nào? Để đạt hiệu quả, ngoài vệc nghe giảng trên lớp sinh viên phải có phương pháp phù hợp để tự học, tự nghiên cứu. Nói cách khác, nếu sinh viên không nỗ lực, phấn đấu trong việc tự học thì việc dạy học các môn Lý luận chính trị không thể đạt hiệu quả như mong muốn.

Tự học là một công việc tương đối phức tạp, đa dạng hóa, vì mỗi sinh viên đều có phương pháp học tập riêng, một thời gian riêng cho mình. Do vậy, để đưa ra những yêu cầu chung cho công tác tự học của sinh viên là một việc làm không dễ, với kinh nghiệm giảng dạy của cá nhân, chúng tôi đưa ra một số phương pháp nhằm giúp sinh viên nhà Trường tự học các môn Lý luận chính trị đạt hiệu quả cao hơn.

1. Chuẩn bị tài liệu và phương tiện theo sự hướng dẫn của giảng viên

Học là hoạt động nhận thức tích cực, tự giác và sáng tạo của sinh viên, hoạt động dạy của người giảng viên không có nghĩa là truyền thụ tri thức, truyền thụ những sản phẩm sẵn có, mà cần phải tổ chức, điều khiển hoạt động tự nhận thức của sinh viên, hình thành cho sinh viên nhu cầu thường xuyên học tập, tìm tòi kiến thức, kích thích năng lực sáng tạo, trang bị cho các em năng lực tổ chức lao động trí óc một cách hợp lý, làm cho các em định hướng được kiến thức bài học và tự khai thác tri thức.

Để đạt được mục tiêu này, giảng viên cần yêu cầu sinh viên chuẩn bị bài kỹ trước mỗi buổi học. Bên cạnh giáo trình môn học, sinh viên cần chủ động sưu tầm tài liệu, thông tin trên các phương tiện; với các yêu cầu cụ thể như: sinh viên sẽ trả lời những câu hỏi nào? sử dụng phương tiện gì để phục vụ cho việc học tập? để khi tiến hành bài học trên lớp thì giảng viên và sinh viên cùng làm việc tránh tình trạng độc thoại của giảng viên.

2. Phương pháp nghe giảng và ghi chép

Ở trình độ đại học, cao đẳng, sinh viên phải tiếp xúc một phương pháp nghe giảng và ghi chép mới. Thực tế giảng dạy chúng tôi nhận thấy rằng khi vào năm đầu tiên nhiều sinh viên còn lúng túng trước cách giảng của thầy các em không biết làm thế nào để ghi chép. Vậy làm thế nào để sinh viên có được phương pháp nghe giảng và ghi chép tốt nhất?

Theo chúng tôi, sinh viên cần rèn luyện các khâu sau:

Để tiếp nhận bài giảng một cách tối ưu, sinh viên cần tìm hiểu đề cương chi tiết học phần để nắm chương trình môn học, biết được những vấn đề sẽ trình bày theo hướng nào? nội dung, phạm vi của bài học? vấn đề nào sinh viên sẽ tự học, tự nghiên cứu?

Sinh viên cần làm tốt công tác chuẩn bị, nên bắt đầu từ việc xem lại bài ghi lần trước, khi sinh viên nắm vững kiến thức đã học sẽ lĩnh hội nội dung bài mới tốt hơn. Khi nghiên cứu nội dung bài mới, những vấn đề khó hoặc chưa hiểu, sinh viên nên ghi chép lại để khi nghe giảng sẽ chú ý hơn và nếu bài giảng chưa giải thích rõ các em cần trao đổi với thầy hoặc bạn.

2.2. Nghe giảng và ghi chép trên lớp

Nghe giảng trên lớp: Chúng ta đều biết rằng, cùng một lúc có nhiều tín hiệu khác nhau tác động vào các giác quan của sinh viên, nhưng không phải tất cả các tín hiệu đó đều đi vào ý thức, mà người học sẽ tiếp nhận những tín hiệu đó một cách có lựa chọn. Khi nghe giảng, sinh viên phải hoạt động tư duy hết sức tích cực, khẩn trương để có thể nắm được những vấn đề giảng viên gợi mở, trình bày.

Ghi chép trên lớp: Nghe giảng và ghi chép là hai hoạt động cùng tiến hành đồng thời. Các nhà tâm lý học đã chỉ ra rằng, việc tiến hành đồng thời hai loại hoạt động chỉ có thể đạt được kết quả cao khi một trong hai hoạt đó đã trở nên thành thạo đến mức gần như tự động hóa. Cách ghi chép lại mang sắc thái cá nhân, mỗi môn học lại đòi hỏi một phương pháp ghi chép khác nhau, nhưng đều có một điểm chung là nếu sinh viên không hiểu bài thì không thể ghi chép tốt được. Vì vậy, qua cách ghi của sinh viên, giảng viên có thể biết được mức độ nắm bài của sinh viên. Như vậy, việc ghi lại bài giảng cũng là một nghệ thuật, luôn thay đổi tùy theo đặc trưng từng môn học và phong cách giảng của từng giảng viên. Đối với các môn Lý luận chính trị, cần đảm bảo tính chính xác và tính logic của các quan điểm, luận cứ, luận chứng…Vì vậy, bài ghi của sinh viên phải chính xác, đảm bảo yêu cầu về kiến thức và tính logic của bài học. Tuy nhiên, cách ghi bài của mỗi sinh viên có thể khác nhau, tùy thuộc vào vốn hiểu biết và sự vận dụng sáng tạo của mỗi sinh viên.

2.3. Xem lại và chỉnh lý bài ghi

Mặc dù trên lớp sinh viên tích cực động não và ghi chép, nhưng nếu sau đó sinh viên xếp vở ghi lại, đợi tới ngày ôn thi mới mở ra xem mà không chỉnh lý ngay thì việc tiếp thu bài không thể coi là hoàn chỉnh và tốt; ở trình độ đại học và cao đẳng các môn Lý luận chính trị có khối lựợng kiến thức rộng, mang tính trừu tượng được tổng hợp từ nhiều lĩnh vực, nên bài giảng của giảng viên trên lớp chỉ mang tính hướng dẫn, gợi ý chứ không phải trình bày hoàn chỉnh, trọn vẹn về một vấn đề. Vì vậy, việc xem lại và hoàn chỉnh bài ghi là việc làm tất yếu đối với sinh viên.

Để giúp sinh viên có thể nghe giảng và ghi chép thuận lợi, giảng viên nên:

– Giới thiệu trước những tài liệu cần đọc để phục vụ cho bài học và đề ra những yêu cầu cụ thể cho sinh viên khi đọc các tài liệu đó.

– Cần có những hình thức, biện pháp kiểm tra việc đọc tài liệu và tự nghiên cứu của sinh viên.

– Trình bày vấn đề một cách hệ thống, rõ ràng để sinh viên dễ theo dõi vấn đề và ghi chép, tránh tình trạng giáo viên trình bày bài giảng tản mạn, thiếu hệ thống, làm cho sinh viên dù phải tập trung chú ý cao độ nhưng vẫn không nắm bắt được nội dung cơ bản của vấn đề và không thể ghi chép được.

3. Phương pháp đọc giáo trình và tài liệu

Đối với sinh viên ở trình độ đại học và cao đẳng, đọc sách không những là nhu cầu, hứng thú mà còn là một nhiệm vụ tất yếu. Đọc giáo trình, tài liệu để tự học, tự nghiên cứu là công việc chính của mỗi sinh viên. Trong quá trình học tập các môn Lý luận chính trị, 100% sinh viên phải có giáo trình, tài liệu cần thiết, theo chúng tôi để đọc giáo trình và tài liệu có kết quả, sinh viên cần lưu ý:

– Sinh viên phải biết lựa chọn sách, báo, tạp chí, văn kiện, nghị quyết,… phù hợp với từng bài học

– Sinh viên cần xác định rõ mục đích đọc tài liệu: Đọc để tìm hiểu toàn bộ nội dung cuốn sách; để tìm hiểu một vấn đề; sưu tầm tài liệu bổ sung cho những vấn đề các em đang nghiên cứu… hoặc thu thập thông tin để giải quyết một vấn đề thực tiễn nào đó. Nói chung, đọc sách vì mục đích gì thì sinh viên phải xác định được ngay từ đầu mới đạt hiệu quả thiết thực.

– Đọc tài liệu để hiểu sâu kiến thức cơ bản của từng bài, từng chương và tiến tới cả học phần.

4. Sinh viên lập kế hoạch học tập

Kế hoạch học tập của sinh viên phải thực tế và linh hoạt, không thể lập một kế hoạch mà trong đó mỗi công việc đều quy định thời gian cụ thể. Vì như vậy, các em có thể gặp những tình huống bất ngờ và kế hoạch bị phá vỡ. Do đó, kế hoạch học tập của sinh viên không phải là cứng nhắc, mà là một kim chỉ nam, một phương hướng để sinh viên hành động. Đặc biệt, trong đào tạo theo học chế tín chỉ, sinh viên có nhiều thời gian để tự học, nên các em phải có kế hoạch sử dụng quỹ thời gian hợp lý, có như vậy các em mới làm chủ được quỹ thời gian, không bị động trước nhiều nguồn tư liệu cần phải đọc và các công việc phải hoàn thành theo yêu cầu và sự hướng dẫn của giảng viên.

Ngoài ra, để thực hiện tốt kế hoạch học tập, sinh viên phải có đủ phương tiện để học tập như: giáo trình, tài liệu tham khảo, cùng các phương tiện hỗ trợ khác… Tuy nhiên, việc tự học của sinh viên chỉ có kết quả khi có sự kiểm tra và đánh giá của giảng viên một cách thường xuyên hoặc sinh viên tự đánh giá, vì thông qua kiểm tra đánh giá giúp các em biết rõ ưu, nhược điểm của mình để có sự điều chỉnh hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả học tập.

Minh Duyên ( Bộ môn LLCT – Trường ĐH Phú Yên )

Phương Pháp Ngừa Thai Tự Nhiên

1. Ngừa thai tự nhiên là gì ?

Các phương pháp ngừa thai tự nhiên là những phương thức để biết và hiểu hoạt động của cơ thể phụ nữ trong những gì có liên hệ tới sự thụ thai. Khi quan sát một số dấu hiệu và triệu chứng của cơ thể mình mỗi ngày, phụ nữ hiểu cơ phận sinh dục của mình hoạt động như thế nào; điều này giúp đôi vợ chồng hiểu khi nào họ có thể có con ( thời kỳ có thể thụ thai ) và khi nào họ không thể có con ( thời kỳ không thể thụ thai ). Các phương pháp ngừa thai tự nhiên giúp đôi vợ chồng biết nhau và cả hai cùng chọn lựa tạo điều kiện dễ dàng cho sự thụ thai để sinh con hoặc hoãn lại vào một thời điểm khác. Có nhiều phương pháp ngừa thai tự nhiên, nhưng tất cả đều có chung hai yếu tố căn bản: ( a ) quan sát chu kỳ kinh nguyệt và sự có thể thụ thai của phụ nữ; ( b ) kiêng giao hợp trong thời kỳ phụ nữ có thể thụ thai, trừ khi đôi vợ chồng muốn có con.

2. Dựa vào đâu để ngừa thai tự nhiên ?

Các phương pháp ngừa thai tự nhiên dựa trên sự nhận diện các triệu chứng có thể có thai trong diễn tiến hằng ngày của cơ thể phụ nữ. Những triệu chứng ấy cho thấy thời kỳ có thể thụ thai, độc lập với khoảng cách dài ngắn hay sự điều hòa của chu kỳ kinh nguyệt. Sự rụng trứng nơi mỗi phụ nữ được biểu lộ với những dấu hiệu chính xác và có thể xác định được. Có ba dấu hiệu chính cho thấy những ngày có thể thụ thai: thân nhiệt, màng nhầy ở cổ tử cung và những biến đổi nơi cổ tử cung. Những dấu hiệu và triệu chứng ấy là kết quả do kích thích tố gây nên.

3. Hiệu nghiệm của các phương pháp ngừa thai tự nhiên:

Nói chung, nếu sử dụng đúng đắn, các phương pháp ngừa thai tự nhiên tân thời có tỷ lệ thành công lớn hơn các phương pháp ngừa thai nhân tạo hiệu năng nhất. Thực vậy, ngày nay chúng ta biết dựa trên các con số thống kê đáng tin cậy ( Advances in contraception 10 ( 3 ): 195, 1994; Contraception 53: 69-74, 1996; Advances in contra-ception, 15: 69 – 83, 1999 ) rằng nếu tuân hành các quy tắc của các phương pháp ngừa thai tự nhiên và nếu các đôi vợ chồng sử dụng đúng đắn các phương pháp này ( perfect use ), thì tỷ lệ thành công là 98% và hơn nữa. Một sự đánh giá nghiêm túc về hiệu năng của các phương pháp ngừa thai tự nhiên không thể chỉ dựa trên tỷ lệ thai nghén xảy ra trong tương quan với con số chu kỳ / tháng sử dụng, đối với 100 phụ nữ sử dụng phương pháp này trong một năm ( Tỷ số của Pearl, 1933 ), nhưng phải để ý đến nhiều yếu tố thay đổi khác có liên hệ. Điều hiển nhiên là cả các yếu tố khác cũng góp phần vào sự thành công của phương pháp ngừa thai tự nhiên: phẩm chất việc giảng dạy huấn luyện, sự học hành đúng đắn, động lực thúc đẩy cặp vợ chồng, sau khi xác định thời kỳ không thể thụ thai, họ quyết định có giao hợp tính dục hay không, dựa theo sự nghiêm túc của các động lực thúc đẩy họ tránh hoặc hoãn lại sự thụ thai.

4. Tại sao dùng phương pháp ngừa thai tự nhiên ?

Vì phương pháp này thật đơn sơ dễ học, hiệu nghiệm trong việc sử dụng, không có các công hiệu phụ, và nhất là tôn trọng phái tính của đôi vợ chồng. Đối với các tín hữu Công Giáo, việc sử dụng phương pháp ngừa thai tự nhiên là điều phù hợp với giáo huấn của Hội Thánh. 5. Những khác biệt giữa các phương pháp ngừa thai tự nhiên và ngừa thai nhân tạo: – Ngừa thai tự nhiên là một sự chọn lựa do đôi vợ chồng cùng quyết định hằng ngày với nhau. – Các phương pháp này giúp biết mình và người bạn đường, và vì thế nó giúp đối thoại và tăng trưởng với nhau trong đôi vợ chồng. – Nó giúp sử dụng một cách thông minh thực tại sinh lý của phụ nữ, nhận biết và tôn trọng thực tại ấy, nghĩa là theo các nhịp độ và chu kỳ của người nữ. – Ngừa thai tự nhiên không kèm theo những yếu tố rủi ro gây hại. – Có thể sử dụng suốt trong thời kỳ đôi vợ chồng có thể thụ thai và không cần phải có sự kiểm soát của bác sĩ. Trái lại, trong các phương thức ngừa thai nhân tạo: – Một trong hai người dùng phương thức ngừa thai, người kia có thể không biết hoặc không đồng ý. – Các phương pháp ngừa thai nhân tạo không giúp biết mình và trái lại, một số phương thức này can thiệp vào hoạt động của cơ phận hoặc các bộ máy không liên hệ với tiệc thụ thai. – Các phương pháp ngừa thai nhân tạo làm cho người ta coi sự có thể thụ thai như một chức năng cần phải ngăn chặn, hoặc khởi động lại, tùy theo ý mình, và người con bị coi như một sản phẩn của chức năng ấy. – Đối với một số người, các phương pháp ngừa thai nhân tạo có những yếu tố rủi ro khiến không nên sử dụng. – Một số phương pháp ngừa thai nhân tạo không thể sử dụng suốt trong thời kỳ có thể thụ thai của đôi vợ chồng. – Một số phương pháp ngừa thai nhân tạo phải được sử dụng dưới sự kiểm soát của bác sĩ vì chúng có thể có những công hiệu phụ. – Tất cả các phương pháp ngừa thai nhân tạo phải ngưng để tạo điều kiện cho sự sinh con.

6. Phải chăng các phương pháp ngừa thai tự nhiên bao hàm thời kỳ dài không được quan hệ tính dục với nhau ?

PHƯƠNG PHÁP BILLINGS

Phương pháp này cũng gọi là phương pháp xác định ngày trứng rụng ( Ovulation ). Đây là phương pháp ngừa thai tự nhiên được coi là rất nổi tiếng và uy tín hiện nay. Nó có thể được bất kỳ phụ nữ nào sử dụng, dù họ có chu kỳ kinh nguyệt điều hòa, dài ngắn thế nào đi nữa và trong bất kỳ giai đoạn nào, như đang nuôi con bằng sữa mẹ, ngưng dùng thuốc ngừa thai, tiền tắt kinh, lúc căng thẳng, tất cả những tình trạng thường bao gồm thời kỳ lâu dài không thể có thai. Sau cùng cả những phụ nữ đã từng sử dụng thuốc ngừa thai, cũng có thể dùng phương pháp Billings hiệu nghiệm. Phương pháp này do ông bà bác sĩ John và Evelyn Billings người Úc phát minh. Cả hai đều tốt nghiệp y khoa đại học Melbourne. Họ đề ra phương pháp “Ngày trứng rụng” từ năm 1964 qua cuốn “Ovulation Method” và liên tục kiện toàn sau đó. ( http://www.billings-centre.ab.ca ) Sau khi quan sát và nghiên cứu lâu dài, Ông Bà Billings đi đến kết luận rằng: Hễ màng nhầy trong âm hộ phụ nữ có chất nhờn dầy đặc, là dấu chỉ đáng tin cậy cho những thay đổi nội tiết khi xảy ra hiện tượng rụng trứng. Nếu không có chất nhờn ấy, tinh trùng sẽ chết trong vòng hơn kém 1 giờ. Vì thế, triệu chứng chất nhờn dầy ấy cho biết phụ nữ bắt đầu giai đoạn có thể thụ thai. Sự xem xét ngày trứng rụng để xác định thời gian có thể thụ thai dựa trên mấy dữ kiện như sau: Khi bắt đầu có kinh là khởi đầu cho một chu kỳ mới, được xem là lúc có thể thụ thai. Lý do là vì người nữ có thể có một chu kỳ kinh nguyệt không điều hòa hoặc quá ngắn ngủi, đến độ tiến trình rụng trứng đã bắt đầu ngay trước lúc chấm dứt ra kinh. Người đó có thể không nhận ra rõ rệt tiến trình này bởi vì đang hành kinh, làm cho người ấy khó quan sát sự xuất hiện của chất nhờn. Vì thế, theo sự khôn ngoan, ta nên cẩn mật và đề phòng xem giai đoạn đang có kinh, là thời gian có thể thụ thai. Sau kinh kỳ, người nữ cảm nhận một sự khô ráo rõ rệt. Trong thời gian này, người nữ không thể thụ thai. Sau thời kỳ khô ráo, nơi cửa mình, người phụ nữ cảm thấy sự xuất hiện của một thứ chất nhờn dinh dính, trong suốt, tựa như lòng trắng trứng. Chất nhờn ra nhiều nhất, đạt tới “tột điểm” là ngày cuối cùng của thời gian rụng trứng. Dầu vậy, người ta thường xác định thời gian dễ thụ thai, được bắt đầu vào ngày thứ nhất khi chất nhờn mới xuất hiện và kéo dài thêm ba ngày sau, là lúc mà chất nhờn ra nhiều nhất. Và sau cùng, kể từ ngày thứ tư sau ngày ra chất nhờn nhiều nhất cho tới kỳ kinh nguyệt sau, lại là thời kỳ không thể thụ thai. Tóm lại, hiểu biết ý nghĩa những thay đổi của nội tiết âm đạo, người nữ tự khám phá ra những khác biệt trước lúc rụng trứng, ngay lúc trứng rụng và sau khi rụng trứng nơi chính vị trí cửa tử cung của mình. Quen quan sát và tường tận để ý, người nữ sẽ nắm vững thông tin về thời khắc dễ thụ thai của mình. Để học phương pháp Billings một cách đúng đắn, không thể chỉ tự học, hoặc tin cậy vào việc đọc một cuốn cẩm nang, nhưng cần phải được sự hướng dẫn của một nữ giáo chức có bằng và được một trong những trung tâm chuyên môn chứng nhận khả năng, trung tâm này là chi nhánh của tổ chức WOOMB quốc tế ( World Organization Ovulation Method Billings ). Tất cả các trung tâm này bảo đảm sự giảng dạy đúng đắn phương pháp này nhờ sự nghiêm túc khoa học và luân lý, và sự huấn luyện và cập nhật liên tục cho các giáo chức. Sự giảng dạy như một công việc thiện nguyện, hoàn toàn miễn phí. Huấn luyện viên phương pháp này luôn luôn là một phụ nữ, do kinh nghiệm bản thân về hiện tượng chất nhờn ở cổ tử cung, là tiêu chuẩn duy nhất phương pháp này dựa trên đó. Để đạt tới sự tự lập trong việc sử dụng phương pháp Billings, cần gặp huấn luyện viên thường xuyên cho đến khi đạt tới sự tự lập, để học cách nhận ra đúng đắn hiện tượng chất nhờn ( đặc, khí cảnh và cảm giác do chất nhờn tạo ra ) và có thể xác định giai đoạn có thể thụ thai hoặc không thụ thai, theo chu kỳ kinh nguyệt của mình. Sự chú ý tập trung vào một hiện tượng duy nhất làm cho phụ nữ nhận thức được rõ ràng, đơn sơ, đúng thời và chính xác thời kỳ mình có thể thụ thai hay không, bảo đảm một sự học đúng phương pháp Billings. Huấn luyện viên luôn sẵn sàng giúp đỡ người học, làm sáng tỏ những điều cần thiết trong việc sử dụng phương pháp này. Nhiều Giáo Phận ở các nước Âu Mỹ thường cho mở nhiều khóa học, hoặc có những người đặc trách hướng dẫn, hoặc cung cấp những tin tức, chỉ dẫn giúp các tín hữu muốn áp dụng phương pháp này. ( Nguồn : sưu tầm )

Bạn đang đọc nội dung bài viết Phương Pháp Tự Học Môn Địa Lý Tự Nhiên Việt Nam trên website Cuocthitainang2010.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!