Cập nhật nội dung chi tiết về Tìm Hiểu Về Nguồn Gốc Các Bài Tập Yoga Suối Nguồn Tươi Trẻ Giúp Trẻ Hóa Da mới nhất trên website Cuocthitainang2010.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Theo như trong cuốn sách có nói, thân thể con người có 7 trung tâm năng lực, mà theo quan niệm trong y học cổ truyền phương Đông chính là 7 luân xa. Còn trong y học hiện đại Phương Tây, các nhà khoa học coi luân xa này chính là đối chứng siêu hình của các tuyến nội tiết tố với vị trí và nhiệm vụ tương đương nhau. Tức là, mỗi luân xa tập trung vào một trong số 7 tuyến nội tiết của cơ thể và có tác dụng kích thích sự sản xuất hóc-môn. Chính những hóc-môn này có khả năng điều hành toàn bộ các chức năng của các cơ quan nội tạng và đồng thời điều hành cả tiến trình lão hóa
Nếu là một cơ thể khỏe mạnh, cường tráng, sự hoạt động của những luân xa này phải thật mãnh liệt, giúp cho “prana”, sinh lực chủ yếu của sự sống được diễn ra một cách trôi chảy qua các tuyến nội tiết. Nhưng nếu 1 trong 7 luân xa bị hoạt động trì trệ thì dòng sinh lực của sự sống bị cản trở hoặc bế tắc và như thế dẫn đến bệnh tật và già nua.
Những công dụng thực tế của 5 thức Yoga Tây Tạng đó là cho bạn sinh lực dồi dào; tinh thần minh mẫn, an nhiên, thư thái; cơ bắp săn chắc; mang đến những giấc tốt; thở sâu; sức khỏe toàn diện được nâng cao, ít ốm vặt; duy trì sự trẻ trung từ làn da đến vóc dáng.
– Trẻ hóa da, nâng cao sức khỏe với suối nguồn tươi trẻ gồm 5 đông tác, môi động tác đều vô cùng hữu ích, để đạt được kết quả tối ưu, các bạn không nên bỏ sót một thức nào. Đây cùng là chia sẻ kinh nghiệm của người đã luyện tập thành công.
– 5 bài tập suối nguồn tươi trẻ đều có hướng dẫn trên các trang mạng, kênh Youtube, các bạn có thể lên đó xem và làm theo.
Hy vọng những thông tin trên sẽ giúp bạn hiểu rõ về s uối nguồn tươi trẻ và đừng quên
Tìm Hiểu Về Nguồn Gốc, Tập Tục Của Ngày Lễ Halloween
Cách đây 2000 năm tại vùng đất của người Celtic (ngày nay là một phần đất của Anh, Ireland, miền Bắc nước Pháp) có ngày lễ “The Celtic Festival of Samhain” goi tắt là Samhain được tổ chức vào tối đêm trừ tịch – đêm trước của năm mới- tức ngày 31/10 để tưởng nhớ và vinh danh Thánh Samhain. Theo tín ngưỡng của người Celtic thì Thánh Samhain là vị chúa tể cai quản những linh hồn của người chết nền Ngài có quyền cho phép các linh hồn người chết được trở về dương thế thăm gia đình và ăn tết vào đêm trừ tịch trong ngày tết của họ. Đây cũng là khoảng thời gian mà các tu sĩ hoặc các linh mục Celtic đưa ra sự tiên đoán về tương lai cho cuộc sống cuả người dân vùng này. Vì vậy, trong đêm đó mọi nhà sẽ dập tắt mọi ánh sáng để ma quỷ không thể vào mà hết thảy mọi người từ tu sĩ đến người dân đều tụ tập quanh một đống lửa cùng lắng nghe lời tiên chiêm tinh.
Vào năm 43 sau công nguyên, dân tộc Celtic bị người La Mã chinh phục và cai tri lãnh thổ trong khoảng 400 năm. Trong quá trình cai trị người La Mã đã cho kết hợp lễ Feralia của mình với lễ Samhain của người Celtic. Ngày lễ Feralia được tổ chức vào cuối tháng 10 để vinh danh nhưng người chết và tôn vinh nữ thần mùa màng Pamona tức nữ thần hoa quả và cây cối của người La Mã. Vì biểu tượng của nữ thần Pamona là quả táo nên táo đã được kết hợp vào lễ hội Halloween. Trong ngày này mọi người thường tổ chức đoán vân mệnh tương lai bằng cách thi cắn quả táo treo ở đầu một sơi dây hay có thể thi cắn quả táo được thả trong chậu nước.
Đến năm 800 sau công nguyên, dưới ảnh hưởng của Kito giáo, ngày 1/11 được gọi là lễ Allhallows hay còn gọi All Saints’ Day (lễ Các Chư Thánh) nên này 31/10 được gọi là All Hallows’ Eve và sau này được đổi thành lễ Halloween. Chính vì vây mà Halloween đươc coi là sự hòa trộn giữa các tập tục của người Celtic, công giáo La Mã và các nghi thức truyền thống dân gian Châu Âu để tạo nên ngày lễ phổ biến này. Tại Anh lễ hội Halloween còn được gọi là Nutcrack Nighth hay Snap Apple Night bởi đây là dịp mọi thành viên trong gia đình thường ngồi quây quần quanh lò sưởi kể chuyện, ăn đâu phộng và ăn trái cây. Ngoài ra vào ngày này những người nghèo đi ăn xin gọi là A Souling thường được chủ mời ăn bánh linh hồn với điều kiện phải cẩu nguyện cho người chết. Khi người Anh dến định cư tại Bắc Mỹ thìả mình họ đã mang phong tục của mình theo nhưng phải dếnnhững măm 1800 thì tín ngưỡng và ngày lễ Halloween mới trở nên phổ biến và lan rộng khắp.
2. Tập tục trong ngày lễ Halloween
Đây là dịp để các bé thỏa thức thể hiện các tác phẩm “điêu khắc” của mình. Những quả bí ngô, củ khoai tây hay bí đao được đuc dẽo thành hình mặt người và đặt đèn cầy vào bên trong để thắp sáng. Những chiếc lồng này còn đươc gọi là “Jack O’Latern” nói về anh chàng Jack keo kiệt nên khi chết không được lên thiên đường mà phải xuống dịa ngục làm linh hồn lang thang với chiếc đèn bí ngô.
Đây có thể đươc xem là lễ hội được xem là yêu thích nhất bởi sự vui vẻ, nhộn nhịp rộn ràng tiếng cười từ trẻ em. Chính vì vây bên canh các bộ quần áo phù thủy, ma quỷ thì ngày nay mọi người tha hồ hóa trang thành các nhân vât khác trong hoạt hình, những nhân vât siêu nhân hay những người nổi tiếng.
Theo truyền thuyết thì vào ngày này các hồn ma sẽ tìm đến để lừa bịp, phá phách con người bằng cách đến xin ăn từng nhà và chủ nhà phải cho chúng đồ ăn uống. “Trick” nguyên nghĩa là đánh lừa trò chơi tinh ma nghịch ngợm còn “treat” là tiếp đón, tiếp đãi đối xử tử tế. Với ý nghĩa đó trẻ con trong ngày lễ Halloween sẽ hóa trang với áo quần và mặt nạ cầm đèn lồng đến từng nhà gõ cửa và nói “trick or treat” với hàm ý “thiết đãi chúng tôi cái gì đi nếu không chúng tôi sẽ phá đấy”. Để tránh gặp phiền phức chủ nhà thường chuẩn bi nhiều trái cây và bánh kẹo để đãi bọn trẻ con khi đến gõ cửa.
Đớp táolà trò chơi cũng được phổ biến trong ngày lễ Halloween này với việc thi ăn thật nhiều trong thau nước hoặc thị gọt vỏ táo càng dài thì càng sống lâu.
3. Muôn nẻo Halloween
Lễ hội Halloween tai đây thường được mọi người diện các trang phục rất đáng sợ như xác ướp, yêu tinh, phù thủy, ma cà rồng… để “nhát” với nhau. Trò “Trick or treat” thường không diễn ra tại nhà mà được mọi người kéo nhau từ cửa hàng này đến cửa hàng khác để xin bánh kẹo.
Đối với người Đức thì vào ngày lễ hội mọi người sẽ ném da ra đường vào đêm Halloween với ý nghĩa là ngăn chặn sự trở về của các linh hồn.
Người Nhật có lễ hội Obon tương tự như lễ Halloween đều là ngày dành cho các linh hồn của người dã khuất. Trong lẽ này thức ăn được chuẩn bị kỹ lưỡng, đèn lồng đỏ đươc treo khắp nơi trong đêm. Đôi khi những chiếc lồng nhỏ được thả trôi trên sông trong ngày lễ Obon
Sự du nhâp văn hóa từ phương Tây vào và lan rộng nhanh chóng thì lễ hội Halloween ngày càng được các bạn trẻ yêu thích. Trong ngày này các ban thỏa sức vui chơi, giải trí bên bạn bè bằng cách hóa trang thành các nhân vật mình thích hay đơn giản tụ tập bạn bè đi ăn uống với nhau.
Ngày nay, lễ hội Haloween đã lan rộng nhanh chóng với sự tiếp nhận của hầu hết mọi người chứ không còn gói gọn đối với các nước phương Tây. Có thể nó không còn mang ý nghĩa gốc nữa nhưng khái quát thì Halloween là lễ hội giành cho sự vui chơi, thoải mái nên được giới trẻ đón nhận mọi nơi hưởng ứng sôi nổi.
Halloween không chỉ là ngày lễ vui chơi mà là ngày nhắc nhở mọi người sống phải có từ bi, giúp đỡ người nghèo đừng nên quá tham lam, keo kiệt, bủn xỉn. Trải qua thời gian ý nghĩa giáo dục dường như bị lãng quên mà thay vào đó là hoạt động vui chơi của các ban trẻ. Ngày nay, Halloween được biết như là một lễ hội hóa trang với nhiều biến hóa từ dễ thương đến kinh dị, từ hình tượng đáng yêu đến những khuôn măt làm người ta khiếp sợ nhưng nhìn chung tất cả đều chỉ muốn mang lại tiếng cười đùa trong ngày lễ này.
Tìm Hiểu Về Nguồn Gốc Của Sushi – Niềm Tự Hào Của Văn Hóa Nhật Bản
Tìm hiểu về nguồn gốc của sushi – niềm tự hào của văn hóa Nhật Bản
Giống như nhiều loại món ăn cổ xưa, lịch sử của món sushi được bắt nguồn từ các câu chuyện truyền thuyết và văn hóa dân gian. Trong một truyện cổ tích của Nhật Bản, có một người phụ nữ lớn tuổi đã lén giấu chậu cơm của mình vì sợ rằng kẻ trộm sẽ lấy cắp chúng. Sau một thời gian, bà thu gom những chậu cơm đó và nhận ra cơm đã bắt đầu lên men. Đồng thời những vụn bột cá đã vô tình rơi vào cơm. Bà nhận thấy nó không chỉ ngon mà còn là một cách hữu hiệu để bảo quản cá. Và từ đó món sushi đã ra đời.
Tuy nhiên, trong một câu chuyện dễ thương khác, nguồn gốc thực sự của món sushi có phần bí ẩn hơn. Từ điển Trung Quốc thế kỉ thứ tư có đề cập đến cá ướp muối được đặt trong gạo nấu chín, khiến nó trải qua quá trình lên men. Đây là lần đầu tiên khái niệm sushi được xuất hiện. Quá trình sử dụng gạo lên men để bảo quản cá bắt nguồn từ Đông Nam Á cách đây vài thế kỉ. Khi gạo bắt đầu lên men, axit lactic được tạo ra. Axít, cùng với muối, gây ra phản ứng làm chậm sự phát triển của vi khuẩn trong cá. Quá trình này đôi khi được gọi là tẩy uế, và là lý do tại sao nhà bếp sushi được gọi là tsuke-ba hoặc “nơi ngâm tẩm”.
Khái niệm sushi bắt đầu xuất hiện ở Nhật Bản vào khoảng thế kỉ thứ 9 và càng trở nên phổ biến hơn nhờ sự xuất hiện và lan rộng của Phật giáo. Việc thực hiện chế độ ăn kiêng của Phật giáo trong việc kiềm chế thịt đã làm cho nhiều người Nhật quay sang ăn cá như một khẩu phần ăn kiêng. Người Nhật được cho là người đầu tiên chế biến sushi với tư cách là một món ăn hoàn chỉnh, ăn cơm lên men cùng với cá được bảo quản. Sự kết hợp của gạo và cá được gọi là nare-zushi, hay “sushi tuổi”.
Funa-zushi, dạng nare-zushi sớm nhất được biết đến, có nguồn gốc từ hơn 1.000 năm trước đây gần hồ Biwa, hồ nước ngọt lớn nhất Nhật Bản. Cá chình vàng được biết đến như funa đã được bắt từ hồ, đóng gói trong gạo muối, và nén dưới trọng lượng để tăng tốc độ lên men. Quá trình này mất ít nhất nửa năm để hoàn thành, và chỉ dành cho tầng lớp thượng lưu giàu có ở Nhật Bản từ thế kỷ thứ 9 đến 14.
Vào cuối thế kỷ 15, Nhật Bản đã phải vật lộn trong một cuộc nội chiến. Trong thời gian này, đầu bếp thấy rằng việc tăng thêm trọng lượng cho gạo và cá có thể làm giảm thời gian lên men xuống khoảng một tháng. Họ cũng phát hiện ra rằng cá muối không cần phải phân hủy đầy đủ để có một hương vị tuyệt vời. Từ đó một loại sushi mới đã được ra đời, được gọi là zushi mama-nare, hay nare-zushi nguyên chất.
Năm 1606, Tokugawa Ieyasu, một nhà độc tài quân đội Nhật Bản, chuyển thủ đô của Nhật Bản từ Kyoto đến Edo. Edo đã trải qua một quá trình thay đổi lớn. Với sự giúp đỡ của tầng lớp thương gia, thành phố nhanh chóng trở thành trung tâm của cuộc sống về đêm ở Nhật Bản. Đến thế kỷ 19, Edo đã trở thành một trong những thành phố lớn nhất thế giới, cả về quy mô đất đai và dân số. Ở Edo, những đầu bếp làm sushi sử dụng quá trình lên men với kĩ thuật cao hơn vào giữa những năm 1700, đặt một lớp cơm nấu chín với giấm gạo bên cạnh một lớp cá. Các lớp được nén trong một hộp gỗ nhỏ trong hai giờ, sau đó cắt thành các phần phục vụ. Phương pháp mới này làm giảm đáng kể thời gian chuẩn bị cho sushi … và nhờ một doanh nhân Nhật Bản, toàn bộ quá trình sẽ nhanh hơn.
Trong những năm 1820, một người tên là Hanaya Yohei đã nghĩ ra món sushi nigiri. Năm 1824, Yohei mở gian hàng sushi đầu tiên ở quận Ryogoku của Edo. Ryogoku dịch là “biên giới của hai quốc gia” bởi vì vị trí của nó dọc theo bờ sông Sumida. Yohei đã chọn vị trí của mình một cách khôn ngoan, thiết lập gian hàng của mình gần một trong vài cây cầu vượt qua Sumida. Ông đã tận dụng tiến trình “lên men nhanh” hiện đại hơn, thêm giấm gạo và muối vào cơm tươi và để ủ trong vài phút. Sau đó ông đã cuốn một nắm gạo với một miếng cá sống. Vì cá rất tươi nên không cần trải qua quá trình lên men hay bảo quản nữa. Chính vì vậy thời gian chế biến ra món sushi cũng được rút ngắn, chỉ trong một vài phút thay vì hàng giờ như trước đây. Gian hàng của Yohei trở nên ngày càng phổ biến và thu hút bất cứ ai đi nang qua bờ sông Sumida. Nigiri trở thành “tiêu chuẩn” mới của món sushi thời bấy giờ.
Vào tháng 9 năm 1923, hàng trăm xe đẩy sushi có thể được tìm thấy quanh Edo, bây giờ được gọi là Tokyo. Khi trận động đất lớn ở Kanto xảy ra ở Tokyo, giá đất giảm đáng kể. Bi kịch này đã tạo cơ hội cho các nhà cung cấp sushi mua thêm đất để kinh doanh trong nhà. Ngay sau đó, các nhà hàng phục vụ cho thương mại sushi, được gọi là sushi-ya, xuất hiện khắp thành phố thủ đô của Nhật Bản. Vào những năm 1950, sushi hầu như chỉ được phục vụ trong nhà.
Vào những năm 1970, nhờ sự ra đời và phát triển của tủ đông lạnh, khả năng vận chuyển cá tươi qua những khoảng cách dài trở nên thuận tiện và dễ dàng hơn bao giời hết, nhu cầu sushi cao cấp ở Nhật đã bùng nổ. Các quán sushi được mở ra khắp cả nước, và một mạng lưới nhà cung cấp và nhà phân phối đang mở rộng cho phép sushi mở rộng trên toàn thế giới.
Los Angeles là thành phố đầu tiên ở Mỹ thành công trong việc mua sushi. Năm 1966, một người tên là Noritoshi Kanai và đối tác kinh doanh người Do Thái, Harry Wolff, đã mở nhà hàng Kawafuku ở Little Tokyo. Kawafuku là người đầu tiên cung cấp sushi nigiri truyền thống cho khách hàng quen của Mỹ. Năm 1970, quán bar sushi đầu tiên bên ngoài Little Tokyo, Osho, đã mở cửa tại Hollywood và phục vụ các người nổi tiếng. Ngay sau đó, một số quán sushi mở cửa ở cả New York và Chicago, giúp món ăn trở nên phổ biến rộng rãi khắp Hoa Kỳ.
Sushi đang liên tục phát triển. Các đầu bếp sushi hiện đại đã giới thiệu các thành phần, phương pháp chế biến và phục vụ mới. Sushi nigiri truyền thống vẫn được phục vụ trên khắp Hoa Kỳ, những chiếc cuộn cắt trong rong biển hoặc giấy đậu nành đã trở nên phổ biến trong những năm gần đây. Các món ăn đi kèm như kem phô mai, sốt mayonnaise cay và chiên xào đã phản ánh ảnh hưởng sâu sắc của phương Tây đến món ăn nổi tiếng này. Ngay cả những người ăn chay cũng có thể thưởng thức món sushi rolls theo phong cách hiện đại.
MỌI THÔNG TIN CHI TIẾT XIN VUI LÒNG LIÊN HỆ
Hotline : 0168.566.5626 – 0981.888.600 (Mr Sơn)
Email: liam.foodphotography@gmail.com
Website: https://www.chupanhmonan.com/
Facebook: https://www.facebook.com/LIAM-Food-Photography/
Nguồn Gốc Con Người, Thuyết Tiến Hóa
Với sự hiểu biết hiện nay về nguồn gốc con người trên trái đất thì Thuyết Tiến Hóa ngày nay là một sự kiện vững chắc đã được xác nhận bởi nhiều bộ môn khoa học, và lý trí. Thuyết Tiến Hóa mà chúng ta hiểu ngày nay là sự tổng hợp của hàng núi những bằng chứng trong nhiều bộ môn khoa học như Sinh Học, Sinh Hóa Học, Cổ Sinh Vật Học, Nhân Chủng Học, Di Truyền Học, Khảo Cổ Học, Vật Lý Học, Vũ Trụ Học v..v.., có những bộ môn mà trong thời của Darwin chưa được khám phá ra. Xin đừng nhầm lẫn, cho rằng Thuyết Tiến Hóa là của riêng Charles Darwin. Tư tưởng Tiến Hóa đã có trong nhân loại từ lâu. Nhưng không ai có thể phủ nhận là Charles Darwin đã lập thuyết Tiến Hóa một cách khoa học và từ đó, thuyết Tiến Hóa đã được kiểm chứng và phát triển như ngày nay.
Tuy nhiên, những thắc mắc muôn đời như: con người từ đâu mà ra, sau khi chết sẽ đi về đâu v..v.. vẫn là những mối thắc mắc của con người, ngay trong thời đại này. Và vì vậy, con người, trải qua nhiều thế hệ đã đưa ra những giải đáp khác nhau, tùy theo mỗi nền văn hóa. Những giải đáp thuộc lãnh vực siêu hình dần dần mất đi tính cách thuyết phục, vì không còn hợp với trình độ hiểu biết của con người ngày nay. Tri thức con người phát triển và tiến bộ, từ đó khoa học cũng phát triển theo và con người không còn tin vào những thuyết lý không thể kiểm chứng. Con người phải nhờ đến khoa học để tìm hiểu về vũ trụ, nhân sinh. Khoa học không phản đối niềm tin của bất cứ ai, mà chỉ tìm cách giải thích những thắc mắc trong thế giới vật lý của chúng ta, và khoa học sẵn sàng loại bỏ những giải thích nào không còn hợp thời, không còn đúng với những khám phá mới trong khoa học.
Cho tới ngày nay, tuyệt đại đa số trong giới khoa học đã chấp nhận thuyết Big Bang nói về nguồn gốc của vũ trụ, và thuyết Tiến Hóa nói về nguồn gốc của con người. Chấp nhận cho đến khi khám phá ra những bằng chứng mới chứng tỏ toàn bộ thuyết Big Bang và toàn bộ Thuyết Tiến Hóa không còn đúng. Các khoa học gia công nhận là trong thuyết Big Bang cũng như trong Thuyết Tiến Hóa còn có một số nhỏ những chi tiết chưa giải đáp được. Nhưng xét về toàn bộ thì những thuyết này có tính cách thuyết phục nhất và các khoa học gia hi vọng trong tương lai, gần hay xa còn là một ẩn số, họ sẽ tìm ra những manh mối để giải thích dứt khoát chúng. Những khám phá mới trong nhiều bộ môn khoa học đã chứng minh được rằng: Không còn nghi ngờ gì nữa, loài người chúng ta đã tiến hóa từ các dạng sống thấp hơn, tất cả đều có chung một nguồn gốc xa, rất xa, và do đó liên hệ đến mọi sinh vật trên trái đất, và tất nhiên liên hệ tới cả vũ trụ này.
Sau Darwin thì những đóng góp trong mọi lãnh vực khoa học để kiện toàn thuyết Tiến Hóa thì quá nhiều, không kể sao cho hết. Vài người được biết đến nhiều nhất là T eilhard de Chardin, Linh mục dòng Tên; Ernst Mayr, Giáo sư danh dự đại học Harvard; Stephen Jay Gould, Giáo sư các môn Cổ Sinh Vật Học và Lịch Sử Khoa Học, đại học Harvard; Richard Leaky, nhà Cổ Sinh Vật Học, Giám đốc Chương trình nghiên cứu những sự sống hoang dại ở Kenya, và hàng trăm khoa học gia khác trong đủ mọi bộ môn. Thuyết Tiến Hóa đã được kiểm chứng qua hàng núi những bằng chứng trong hầu hết các bộ môn khoa học. Nhưng căn bản thuyết Tiến Hóa của Darwin về loài người là Tiến Hóa Sinh Học.
Như chúng ta đã biết, nhiều tư tưởng Tiến Hóa đã có từ trước thời Darwin nhung phải tới năm 1859 Darwin mới đưa ra nền tảng khoa học của thuyết Tiến Hóa được trình bày trong cuốn Về Nguồn Gốc Các Chủng Loại Do Chọn Lọc Tự Nhiên (On the Origin of Species By Means of Natural Selection) và sau đó cuốn Nguồn Gốc Con Người (The Descent of Man) năm 1871. Nền tảng khoa học của thuyết Tiến Hóa đã trở thành một cột trụ mà hầu hết các công cuộc khảo cứu trong nhiều bộ môn khoa học đã xoay quanh nó, và càng ngày càng làm cho nền tảng này thêm vững chắc, đúng như nhận định vô cùng chính xác của Linh mục dòng Tên Teilhard de Chardin trong cuốn ” The Phenomenon of Man”: Thuyết Tiến Hóa là một điều kiện tổng quát mà mọi thuyết, mọi giả thuyết, mọi hệ thống [kể cả hệ thống Ki-tô Giáo] phải cúi đầu trước nó và phải phù hợp với nó nếu chúng muốn được nghĩ tới và coi là đúng. [Gần đây, có một “lý luận” mà Ki-tô Giáo đưa ra là thuyết Tiến Hóa nằm trong kế hoạch mầu nhiệm của Thiên Chúa. Ki-tô Giáo đã nổi tiếng là chống không được thì nhận vơ làm của mình, cũng như nền Thần Học Ki-tô Giáo Theo Cung Cách Á Châu đã đang cố sức lấy những cái hay của các tôn giáo Đông Phương, xào xáo biến đổi và nhận vơ làm của mình]
Then chốt thuyết Tiến Hóa của nhà lập thuyết Charles Darwin là ở phần cuối tên cuốn sách: Về Nguồn Gốc Các Chủng Loại Do Chọn Lọc Tự Nhiên (On the Origin of Species By Means of Natural Selection): “Chọn Lọc Tự Nhiên”. Có lẽ tôi cần phải giải thích chút ít về ý nghĩa của “Chọn Lọc Tự Nhiên”. “Chọn Lọc Tự Nhiên” đặt căn bản trên bốn đề xuất:
1. Các sinh vật sinh sản con cái, chỉ có một số có thể sống còn và tiếp tục truyền giống.
2. Những sinh vật sống còn có khuynh hướng thích ứng hơn với những hoàn cảnh xung quanh.
Trong cuốn Nguồn Gốc Con Người (The Descent of Man), Charles Darwin viết:
Kết luận chính đạt tới trong tác phẩm này, rằng con người có nguồn gốc từ một dạng sống nào đó thấp hơn, sẽ làm cho nhiều người rất khó chịu, tôi rất tiếc phải nghĩ như vậy. Nhưng không còn nghi ngờ gì nữa là chúng ta đã là hậu duệ của những kẻ mọi rợ. 2
(Poussières d’étoiles, nous partageons la même histoire cosmique avec les lions des savanes et les fleurs de lavande).
Sự sai biệt còn lại, vào khoảng 0.1% , trong DNA là nguồn gốc của sự khác biệt cá nhân – thí dụ màu mắt hay cơ thể dễ bị nhiễm bệnh, và có những DNA vô dụng, không có một tác dụng gì. Bởi vậy, Phillip Kitcher, Giáo sư Đại học Columbia, đã viết: “Rất nhiều DNA trong những tế bào không cần đến – chỉ là đồ vô dụng. Nếu đó là sự “thiết kế thông minh” [của Thượng đế] thì Thượng đế cần phải trở lại trường học” (A lot of the DNA in there is not needed – it’s junk. If it’s “intelligently designed”, then God needs to go back to school)
1. Giáo Hoàng John Paul II phát biểu năm 1996:
2. Linh mục dòng Tên Teilhard de Chardin trong The Phenomenon of Man:
3. Mục sư Ernie Bringas trong cuốn: Going By The Book: Past and Present Tragedies of Biblical Authority:
4. Giám mục John Shelby Spong trong cuốn Why Christianity Must Change or Die:
6. James Birx trong Interpreting Evolution:
Tiến Hóa là một sự kiện vững chắc đã được cả khoa học và lý trí xác nhận; nhân loại chúng ta thì nối kết với sự sống, lịch sử của trái đất, thiên hà này (giải ngân hà mà thái dương hệ, trong đó có trái đất, nằm trong đó), và cả vũ trụ.
13.7 Tỷ Năm Trước:
13.5 Tỷ Năm Trước:
5 Tỷ Năm Trước:
4 Tỷ Năm trước:
3,9 Tỷ Năm trước:
1 Tỷ Năm Trước:
Những tế bào rong, rêu (algae) sống cùng với nhau, họp thành loại thực vật đầu tiên. Sự sống chung này khiến cho mỗi tế bào có một nhiệm vụ riêng biết. Để cho những nhiệm vụ này không lập đi lập lại, những tế bào phát sinh ra những chất hormone có thể liên lạc với nhau.
700 Triệu Năm trước:
Nhiều sinh vật đa tế bào phức tạp được tiến hóa thành, trong đó gồm có con sứa (jellyfish), sinh vật này phát triển những bắp thịt và thần kinh và các tế bào có thể liên lạc với nhau hữu hiệu hơn.
570 Triệu Năm Trước:
500 Triệu Năm Trước:
470 Triệu Năm trước:
Dưới dạng cổ rêu, những dạng sống đầu tiên rời nước và sống trên đất liền.
100 Triệu Năm Trước:
100000 Năm Trước:
4. Những người Âu Châu đầu tiên: Những nhà cổ sinh vật – nhân chủng học từ lâu đã nghĩ rằng người Âu Châu theo đường từ Bắc Phi qua Levant. Nhưng những dữ kiện di truyền chứng tỏ rằng DNA của những người Tây Âu lai Á (Western Eurasians) thì giống DNA của những người Ấn Độ. Rất có thể là con người đã di dân từ Á Châu đến Âu Châu trong khoảng từ 40000 đến 30000 năm về trước.
Thế giới đã trở thành cái gì nếu không có những người không muốn tin vào Ki Tô Giáo? 10
Angela, Piero & Alberto, The Extraordinary Story of Life on Earth, Prometheus Books, New York , 1996.
Birx, James, Interpreting Evolution: Darwin & Teilhard De Chardin, Prometheus Books, New York, 1991
Davis, Bernard D., The Genetic Revolution, The John Hopkins University Press, Baltimore, 1991.
Gould, Stephen Jay, General Editor, The Book of Life, W.W. Norton & Company, New York, 2001
Gribbin, John, In The Beginning: After COBE & Before The Big Bang, Little Brown & Company, New York, 1993
Gribbin, John & Cherfas, Jeremy, The First Chimpanzee: In Search of Human Origins, Barnes & Noble Books, New York, 2001.
Leaky, Richard & Lewin, Roger, Origins Reconsidered: In Search of What Makes Us Human, Doubleday, New York, 1992.
Liebes, Sidney & Sahtouris, Elisabeth & Swimme, Brian, A Walk Through Time: From Stardust to Us, The Evolution of Life on Earth, John Wiley & Sons, Inc., New York, 1998.
Lockley, Martin, The Eternal Trail: A Tracker Looks at Evolution, Perseus Books, Reading, Massachusetts, 1999.
Mayr, Ernst, What Evolution Is?, Perseus Books, New York, 2001.
Ridley, Matt, Genome: The Autobiography of a Species in 23 Chapters, HarperCollinsPublishers, New York, 1999.
Shapiro, Robert, Origins: A Skeptic Guide To The Creation of Life on Earth, Bantam Books, New York, 1987.
Singh, Simon, Big Bang: The Origin of the Universe, Fourth Estate, New York, 2004.
Wade, Nicholas, Before The Dawn: Recovering The Lost History of Our Ancestors, The Penguin Press, New York, 2006.
Zimmer, Carl, Evolution: The Triumph of an Idea, HarperCollinsPublishers, New York, 2001.
*
* *
1. George Bernard Shaw in a toast to Einstein at a black-tie banquet in 1930: Belief in (Christian) God explains everything about the material universe, therefore it explains nothing…Religion is always right, Religion solves every problem and thereby abolishes problems from the universe…. Science is the very opposite. Science is always wrong. It never solves a problem without raising ten more problems
2. The main conclusion arrived at in this work, namely, that man is descended from some lowly organized forms, will, I regret to think, be highly distasteful to many. But there can hardly be a doubt that we are descended from barbarians.
4. Is evolution a theory, a system or a hypothesis? It is much more: it is a general condition to which all theories, all hypotheses, all systems must bow and which they must satisfy henceforth if they are to be thinkable and true. Evolution is a light illuminating all facts, a curve that all lines must follow…
5. The theory of evolution is among the most elegant and fruitful structures of human thought… All scientific disciplines continue to support and verify the concept of evolution. The theory of evolution, like the theory of relativity, is no longer a “theory” in the popular sense, but a scientific principle based on considerable, indisputable evidence.
6. The theory of evolution made Adam and Eve legendary at best. Evolution was not easy for the religious establishment to accept, and still voices are raised today in remote areas of the world to resit it. Those voices will never succeed. Human life clearly evolved over a four-and-a-half-to-five-billion-year process. There were no first parents, and so the primeval act of disobedience on the part of first parents could not possibly have affected the whole human race. The myth was thus dealt a blow, and the monolithic story of salvation built by Christian apologists over the age began to totter.
7. Evolution is not merely an idea, a theory, or a concept, but is the name of a process in nature, the occurrence of which can be documented by mountains of evidence that nobody has been able to chúng tôi is now actually misleading to refer to evolution as a theory, considering the massive evidence that has been discovered over the last 140 years documenting its existence. Evolution is no longer a theory, it is simply a fact.
8. Evolution is an established fact supported by both science and reason; our own species is linked to life, earth history, this galaxy, and the universe itself.
Is there a modern theology that embraces both a cosmic perspective and the evolutionary framework within an openended and myth-free worldview? Eventually, the blind dogma of religious faith with its outmoded stories and myopic values wears very thin, indeed; it is simply wishful thinking to believe in human immortality and a spiritual cosmos.
9. Science, as we professionals always point out, cannot establish absolute truth; thus, our conclusions must always remain tentative. But this healthy skepticism need not be extended to the point of nihilism, and we may surely state that some facts has been ascertained with sufficient confidence that we may designate them as “true” in any legitimate, vernacular meaning of the world.
Perhaps I cannot be absolutely certain that the earth is round rather than flat, but the roughly spherical shape of our planet has been sufficiently well verified that I need not grant the “flat earth society” a platform of equal time, or even any time at all, in my science class.
Evolution, the basic organizing concept of all the biological sciences, has been validated to an equally high degree, and may therefore be designated as true or factual.
10. This century will be called Darwin’s century. He was one of the greatest men who ever touched this globe. He has explained more of the phenomena of life than all of the Christian religious teachers. Write the name of Charles Darwin on the one hand and the name of every theologian who ever lived on the other, and from that name has come more light to the world than from all those. His theory of evolution, his theory of the survival of the fittest, his theory of the origin of species, has removed in every thinking mind the last vestige of Christianity. He has not only stated, but he has demonstrated, that the inspired writer knew nothing of this world, nothing of the origin of man, nothing of geology, nothing of astronomy, nothing of nature; that the Bible is a book written by ignorance – at the instigation of fear. Think of the men who replied to him. The more ignorant he was the more cheerfully he undertook the task. He was held up to the ridicule, the scorn and contempt of the Christian world, and yet when he died, England was proud to put his dust with that of her noblest and her grandest. Charles Darwin conquered the intellectual world, and his theories are now accepted facts.
Charls Darwin destroyed the foundation of Christianity. There is nothing left but faith in what we know could not and did not happen. The Christian religion and science are enemies. One is a superstition; the other is a fact. One rests upon the false, the other upon the true. One is the result of fear and faith, the other of investigation and reason.
Let us be honest. Did all the priests of Rome increase the mental wealth of man as much as Bruno? Did all the priests of France do as great a work for the civilization as Diderot and Voltaire? Did all the ministers of Scotland add as much to the sum of human knowledge as David Hume? Have all the clergymen, friars, ministers, priests, bishops, cardinals and popes, from the day of Pentecost to the last election, done as much for human liberty as Thomas Paine? – as much for science as Charles Darwin?
What would the world be if infidels had never been?
( Nguồn: http://old.thuvienhoasen.org)
Bạn đang đọc nội dung bài viết Tìm Hiểu Về Nguồn Gốc Các Bài Tập Yoga Suối Nguồn Tươi Trẻ Giúp Trẻ Hóa Da trên website Cuocthitainang2010.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!