Top 14 # Xem Nhiều Nhất Một Số Phương Pháp Dạy Học Tiếng Anh Mới Nhất 5/2023 # Top Like | Cuocthitainang2010.com

Một Số Phương Pháp Dạy Và Học Từ Vựng Tiếng Anh

1. Quan điểm thứ nhất theo trường phái Ngữ pháp-Dịch : Có tên gọi “Grammar – Translation Method” hay còn gọi là phương pháp Truyền thống được áp dụng mạnh mẽ ở Việt Nam vào những năm 1970 cho đến tận những năm 1990. Phương pháp này coi mục đích chủ yếu của dạy và học tiếng Anh là cung cấp cho người học hệ thống từ vựng ngữ pháp tiếng Anh để phát triển kỹ năng đọc hiểu, học thuộc lòng từ vựng, dịch văn bản, đọc các tác phẩm văn học, viết luận (composition) và phân tích ngôn ngữ (học để nắm chắc quy tắc ngôn ngữ) chứ không tập trung vào kỹ năng giao tiếp. Để đọc hiểu các văn bản bằng tiếng Anh, người học được trang bị một lượng từ vựng và hệ thống ngữ pháp văn bản tương đối lớn dưới dạng bảng liệt kê kèm theo nghĩa bằng tiếng mẹ đẻ của người học. Phương pháp này yêu cầu học sinh học bất kì từ mới nào miễn làm sao hiểu và dịch được nội dung bài đọc. Giáo viên khuyến khích người học sử dụng từ điển khi đọc với mục đích nhớ từ. Trên lớp, giáo viên đóng vai trò trung tâm. Việc dạy từ vựng chỉ tập trung vào nghĩa của từ. Quy trình thực hiện: Các bài khóa (texts) được biên soạn và chia ra thành từng đoạn ngắn. Việc giảng giải quy tắc ngôn ngữ là cơ bản. Để kiểm tra sự thông hiểu về nội dung bài khóa (nội dung văn hóa, đất nước học nói chung) và các quy tắc ngôn ngữ, người học bắt buộc phải dịch các bài khóa sang tiếng mẹ đẻ. Người học không được phép mắc lỗi ngôn ngữ, nếu có phải sửa ngay.

Phương pháp Ngữ pháp – Dịch đã được sử dụng phổ biến ở nước ta trong một thời gian khá dài và nó đã có những ưu điểm không thể phủ nhận. Đó là:

– Người học được rèn luyện rất kỹ về ngữ pháp và tiếp thu lượng từ vựng khá lớn.

– Người học nắm được tương đối nhiều các cấu trúc câu cơ bản, thuộc lòng các đoạn văn hay hoặc bài khóa mẫu.

– Người học có thể đọc hiểu nhanh các văn bản.

Tuy nhiên, với xu hướng phát triển của đất nước và thời đại, mục đích của người học tiếng Anh cũng có thay đổi đòi hỏi phương pháp dạy và học tiếng Anh nói chung và từ vựng nói riêng cũng không thể mãi như cũ.

Người ta dần dần nhận ra những hạn chế của phương pháp Ngữ pháp-Dịch là:

– Không giúp người học “giao tiếp” được. Hoạt động chủ yếu trong lớp là người thầy; nghĩa là người thầy giảng giải, nói nhiều, học sinh thụ động ngồi nghe và ghi chép, không có ý kiến phản hồi hoặc không tham gia giao tiếp (nói) với thầy và bạn bè.

– Hoạt động dạy học chỉ diễn ra một chiều – người học hoàn toàn bị động, không có cơ hội thực hành giao tiếp trong lớp; khả năng sáng tạo và đặc biệt kỹ năng nói của người học bị hạn chế nhiều.

2. Phương pháp Nghe -Nói (Audiolingual Method or Audio-Oral Method) nhấn mạnh vào việc dạy kỹ năng nói và kỹ năng nghe trước kỹ năng đọc và kỹ năng viết. Khác với phương pháp Ngữ pháp – Dịch, phương pháp này đáp ứng đúng mục tiêu cần đạt của người học là hình thành và phát triển cả bốn kỹ năng, nhưng ưu tiên phát triển nói, nghe trước đọc và viết. Việc cung cấp kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) được thực hiện xen lồng trong quá trình dạy học. Phương pháp Nghe-Nói không cho phép việc dùng tiếng mẹ đẻ trong lớp; khuyến khích tối đa dùng tiếng Anh trong quá trình dạy học. Khi thực hiện, người ta nhấn mạnh việc phát triển hai kỹ năng nói và nghe là chủ yếu. Việc dạy học thông qua thực hành cấu trúc câu (structures) và qua các bài tập ứng dụng, người học tự phát hiện và tìm hiểu những điểm giống nhau (so với tiếng mẹ đẻ) về cấu trúc câu, cách phát ngôn và đưa ra các qui tắc ngôn ngữ. Yêu cầu người học bắt trước mẫu do người dạy cung cấp, ví dụ: các bài/mẩu đối thoại mẫu (dialogues) có chứa cấu trúc câu hoặc hiện tượng ngôn ngữ cần truyền đạt. Người học luyện tập mẫu đó thực chất là hình thành một thói quen ngôn ngữ theo các hình thức như: hỏi và trả lời về bài đối thoại mẫu, thực hành thêm một số bài tập cấu trúc (thay thế, bổ sung, chuyển đổi …). Đôi khi người học tập trung vào phát triển kỹ năng nghe và nói thông qua các bài hội thoại có sử dụng từ và cấu trúc ngữ pháp trong giao tiếp hàng ngày. Giáo viên dùng các đồ vật thật, hình vẽ, cử chỉ hay cách giải thích bằng chính tiếng Anh để giới thiệu từ mới. Phương pháp này cũng nhấn mạnh tới phát âm chính xác từ với hi vọng người học nói tiếng Anh như người bản ngữ. Việc dạy từ vựng trực tiếp không qua tiếng mẹ đẻ và chỉ chú trọng vào các tình huống giao tiếp cụ thể là cơ sở giúp người học mở rộng nhanh vốn từ.

Nói tóm lại, phương pháp Nghe – Nói có những ưu điểm là:

– Có hiệu quả đối với những người mới học, đặc biệt là học sinh tiểu học hoặc học sinh ở đầu cấp THCS. Người học cảm thấy phấn khởi và tự tin khi được nghe và tập bắt chước theo giáo viên, ví dụ: Người học làm theo lệnh của giáo viên hoặc hát các bài hát tiếng Anh đơn giản.

Tuy nhiên phương pháp này lại có những hạn chế như sau:

– Đối với người học có trình độ ngoại ngữ cao thì rất dễ nhàm chán với phương pháp này nếu không có sự điều chỉnh phương thức dạy học cần thiết.

– Người học áp dụng những gì đã được lĩnh hội trong lớp học vào thực tiễn giao tiếp ngôn ngữ là khó. Người học không thể vận dụng các hình thức ngôn ngữ (các mẫu lời nói) được luyện tập trên lớp một cách tự nhiên vì tuy học sinh có khả năng nghe hiểu, nhớ và bắt chước (nói theo) ngay tại chỗ trong lớp học, song các em cũng rất chóng quên và cảm thấy bị “tắc” khi gặp tình huống tương tự trong giao tiếp thực. Điều này nói lên rằng mặc dù người học có thể nhắc lại từ một cách hoàn hảo xong họ không hiểu rõ nghĩa của từ và không có khả năng sử dụng từ trong những ngữ cảnh khác với điều đã được học; tức là thực tế không diễn đạt được những gì định nói mặc dù sau một thời gian dài học tập.

3. Phương pháp Giao tiếp

Phương pháp Giao tiếp (Communicative Approach) được xem như phương pháp dạy học ngoại ngữ phổ biến nhất và hiệu quả nhất hiện nay. Hầu hết các giáo trình, sách giáo khoa phổ thông tiếng Anh trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay đều được biên soạn dựa theo quan điểm của phương pháp này. Qua đó, coi mục tiêu cuối cùng của dạy học ngoại ngữ là phát triển kỹ năng giao tiếp/kỹ năng ngôn ngữ (linguistic skills), năng lực giao tiếp (communicative competence). Để giao tiếp được, phương pháp này đòi hỏi phải tính đến phương diện xã hội, văn hóa của ngôn ngữ, các điều kiện xã hội của quá trình sản sinh ngôn ngữ, và tính đến ngôn ngữ được dùng trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra, phương pháp Giao tiếp còn chú ý tới phương diện nghĩa của ngôn ngữ, hay nói một cách khác cần lưu ý tới ý định giao tiếp (intention of communication). Khái niệm này về sau các nhà ngôn ngữ gọi là chức năng ngôn ngữ (language function). Như vậy, theo Phương pháp Giao tiếp ngôn ngữ không chỉ là phương tiện diễn đạt tư duy mà còn là phương tiện giao tiếp. Mục đích cuối cùng của người học từ vựng không chỉ biết được cách đọc, cách viết và nghĩa của từ mà cần phải đạt được năng lực (khả năng) giao tiếp; tức là phát triển được tất cả 4 kỹ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) và sử dụng được từ vựng đó để giao tiếp. Vì vậy, các tài liệu dạy học hiện đều hướng đến giúp người học có thể thực hiện được các chức năng ngôn ngữ khác nhau …. Hơn nữa, để giao tiếp hiệu quả, người học cần phải sử dụng các từ vựng thích hợp với tình huống giao tiếp (situations), trong đó yêu cầu người tham gia giao tiếp phải thể hiện được ý định giao tiếp (intention) thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ khác nhau (tasks).

Với quan điểm lấy năng lực giao tiếp của người học làm trung tâm thì từ vựng được coi là một trong ba thành tố làm thành công cụ hay phương tiện để hình thành và phát triển các kỹ năng ngôn ngữ. Nói cách khác là từ vựng được dạy lồng gộp với ngữ pháp và ngữ âm, thông qua và bằng luyện tập các kỹ năng giao tiếp và theo nhu cầu giao tiếp nghe, nói, đọc, viết nghĩa là quá trình giao tiếp cần những từ gì và số lượng là bao nhiêu thì dạy cho người học từng đó.

Ở đây, chúng ta cần hiểu rõ một số khái niệm về từ vựng trong việc dạy và học tiếng Anh nói chung.

a/Dùng trực quan như: đồ vật thật trên lớp, tranh ảnh, hình vẽ phác hoạ (hình que), hình cắt dán từ tạp chí, cử chỉ điệu bộ v.v.

b/Dùng ngôn ngữ đã học:

– Định nghĩa, miêu tả;

– Dùng từ đồng nghĩa, trái nghĩa;

– Dựa vào các quy tắc hình thành từ, tạo từ;

– Tạo tình huống;

– Đoán nghĩa của từ trong ngữ cảnh

c)Dịch sang tiếng mẹ đẻ.

thông thường trong một bài học sẽ luôn luôn có từ mới. Song không phải từ mới nào cũng cần đưa vào dạy như nhau. Do đó việc lựa chọn từ để dạy là nhiệm vụ quan trọng đối với giáo viên. Việc lựa chọn từ trước hết phụ thuộc vào tần suất từ đó được sử dụng trong giao tiếp, phụ thuộc vào khả năng từ đó thay thế các từ khác hay phụ thuộc vào nhu cầu và mục tiêu của người học. Người giáo viên phải biết lựa chọn, xác định từ tích cực, chủ động trong quá trình để giảng dạy và cố gắng phát huy hết khả năng tự học hỏi của học sinh đối với những loại từ không tích cực. Bên cạnh đó giáo viên còn phải biết sắp xếp các từ vựng sẽ dạy trong bài theo một trình tự hợp lý, hoặc tạo các lời dẫn gợi mở theo chủ điểm bài học.

Khi lựa chọn từ để dạy, giáo viên cần xem xét các câu hỏi sau:

a) Từ chủ động hay từ bị động?

– Từ chủ động (active/ productive vocabulary) là những từ người học hiểu, nhận biết và sử dụng được trong giao tiếp nói và viết.

– Từ bị động (passive/ receptive vocabulary) là những từ người học chỉ hiểu và nhận biết được khi nghe và đọc.

b) Người học đã biết từ này chưa?

Giáo viên cần xác định rõ từ mình định dạy có thực sự là từ cần dạy hay không. Vốn từ của người học luôn luôn được mở rộng bằng nhiều con đường, và cũng có thể bị quên bằng nhiều lý do khác nhau. Để tránh tình trạng giới thiệu những từ không cần thiết và mất thời gian, giáo viên có thể dùng những thủ thuật nhằm phát hiện xem các em đã biết những từ đó chưa và biết đến đâu. Giáo viên có thể dùng các thủ thuật như eliciting; brainstorming; hoặc có thể hỏi trực tiếp học sinh những từ nào là từ mới và khó trong bài.

Việc dạy và học từ vựng theo phương pháp giao tiếp được tuân theo những nguyên tắc sau:

– Dạy và học từ thông qua luyện tập các kĩ năng giao tiếp

Việc học từ thông qua qua các kĩ năng giao tiếp giúp người học hiểu nghĩa từ dễ dàng hơn vì các kĩ năng giao tiếp luôn mang ngữ cảnh giao tiếp cụ thể và sinh động. Mặt khác việc học từ thông qua các kĩ năng giao tiếp kích thích nhu cầu sử dụng từ mới như một công cụ phát triển các kĩ năng.

Ngoài ra, giáo viên cần tạo điều kiện cho người học phát triển vốn từ vựng ngẫu nhiên (incidental learning) thông qua đọc rộng (extensive reading) và nghe rộng (extensive listening). Điều này giúp người học từ mới vì các từ này được đặt trong ngữ cảnh cụ thể.

– Dạy và học từ có tần suất sử dụng cao

Tiếng Anh cũng giống bất kì ngôn ngữ nào đều có một số từ được sử dụng trong nhiều ngữ cảnh khác nhau (high-frequency word), một số từ khác có mức độ sử dụng hạn chế hơn (low-frequency word). Việc chọn các từ có tần suất sử dụng cao để dạy sẽ giúp việc học từ đạt hiệu quả cao hơn vì những từ đó được người học sử dụng thường xuyên trong nhiều tình huống giao tiếp khác nhau.

– Dạy và học từ một cách tổng thể

Chúng ta đều biết học từ mà chỉ chú ý đến nghĩa sẽ không đặt được mục đích giao tiếp cao. Do đó khi dạy và học từ cần chú ý đến các khía cạnh khác của từ như: hình thái chữ viết (spelling), cách phát âm ( pronunciation), hình thái ngữ nghĩa (lexical meaning), hình thái ngữ pháp (grammatical form) và cách sử dụng (use).

– Dạy và học từ thông qua nhiều thủ thuật khác nhau

Như đã nói ở trên, giáo viên cần sử dụng các thủ thuật khác nhau để giới thiệu từ mới hoặc kết hợp nhiều thủ thuật để giới thiệu một từ mới. Việc làm này giúp dạy từ vựng có hiệu quả hơn và giúp người học nhớ từ lâu hơn. Một điều cần lưu ý là dịch từ mới sang tiếng mẹ đẻ là một thủ thuật dạy từ có kết quả, song giáo viên nên hạn chế sử dụng thủ thuật này vì việc phụ thuộc quá nhiều vào dịch sẽ làm giảm khả năng giao tiếp của người học.

– Dạy và học từ thông qua luyện tập thực hành

Giáo viên cần tổ chức các hoạt động thực hành và ôn luyện củng cố từ thông qua nghe, nói, đọc và viết để tăng độ trôi chảy khi sử dụng từ. Các hoạt động này sẽ giúp người học tập trung vào việc nhận biết và sử dụng từ đã học thành thạo trong từng ngữ cảnh.

– Chú trọng đến vai trò của người học trong việc dạy và học từ vựng

Giáo viên cần khuyến khích người học tham gia tích cực vào việc học từ thông qua một quá trình lâu dài và liên tục. Mặc dù giáo viên có thể cung cấp cho người học các thông tin về từ vựng và hỗ trợ người học trong quá trình học từ.

– Dạy và học từ thông qua sử dụng từ điển

Giáo viên cần hướng dẫn và khuyến khích người học sử dụng từ điển vì từ điển là phương tiện tra cứu đắc lực cho việc học từ. Việc hướng dẫn sử dụng từ điển sẽ giúp người học nâng cao khả năng tự học đồng thời góp phần làm cho việc dạy từ đạt hiệu quả cao.

Nói tóm lại, phương pháp Giao tiếp có ưu điểm hơn hẳn các phương pháp khác là nó bao trùm mọi phương diện của quá trình dạy học ngoại ngữ: đó là các yếu tố ngôn ngữ, văn hóa, xã hội, các yếu tố ngoài ngôn ngữ… nhằm rèn luyện kỹ năng giao tiếp hoàn chỉnh. Đặc biệt Phương pháp Giao tiếp coi hình thành và phát triển bốn kỹ năng giao tiếp như nghe, nói, đọc và viết là mục đích cuối cùng của quá trình dạy học. Các kiến thức ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp là phương tiện, điều kiện hình thành và phát triển các kỹ năng giao tiếp. Vì vậy, phương pháp Giao tiếp thực sự giúp cho người học có khả năng sử dụng được tiếng Anh để giao tiếp.

Tuy nhiên vẫn có một số hạn chế đó là: Phương pháp Giao tiếp nhấn mạnh vào việc hình thành và phát triển 4 kỹ năng ngôn ngữ: nghe, nói, đọc, viết trong quá trình dạy học, trong đó kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp) không được quan tâm một cách thích đáng. Kết quả là một số người học cảm thấy khó có thể “giao tiếp” vì họ làm sao có thể nghe, nói, đọc, viết được một khi không nắm chắc hệ thống qui tắc ngôn ngữ. Mặt khác, theo quan điểm của phương pháp này, quan hệ giữa ý định giao tiếp (bao gồm các hành động lời nói hay là các chức năng ngôn ngữ học được) và hiện thực là quá phức tạp, không rõ ràng. Nói cách khác, người ta khó có thể lựa chọn các phát ngôn theo chức năng phù hợp với nhu cầu giao tiếp thực tế đa dạng và rất phức tạp.

Trong quá trình dạy học, giáo viên giữ vai trò là người hướng dẫn, tổ chức thực hiện; người học đóng vai trò chủ đạo trong quá trình dạy học; tức là phải phát huy cao độ tính tích cực của học viên trong luyện tập thực hành. Muốn thực hiện được, cá nhân người học phải tích cực và tự giác tham gia thực hành, không sợ mắc lỗi, và cần lưu ý rằng độ lưu loát/trôi chảy (fluency) trong giai đoạn này là rất quan trọng. Điều kiện tối thiểu để người học thực hành kỹ năng ngôn ngữ là mỗi lớp học không quá đông (khoảng 35 HS/lớp); có đầy đủ thiết bị nghe nhìn, băng/đĩa CD, tranh tình huống. Việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập nên nhấn mạnh vào 4 kỹ năng, và một phần nhỏ kiến thức ngôn ngữ. Kiểm tra kỹ năng ngôn ngữ luôn luôn được ưu tiên trong bất kỳ hình thức nào.

Ở nước ta hiện nay, việc dạy và học tiếng Anh trong nhà trường diễn ra trong môi trường giao tiếp của thầy và trò còn có rất nhiều hạn chế: Dạy học trong một tập thể lớn (thường là đơn vị lớp học có khoảng 40 học sinh hoặc hơn), trình dộ nhận thức có nhiều cấp độ khác nhau, phương tiện hỗ trợ giảng dạy chưa đồng bộ. Những điều này làm phân tán sự tập chung của học sinh, tác động rất lớn đến việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh, làm chậm quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh và sự phân bố thời gian cho từng phần nội dung bài sao cho phù hợp với từng loại bài giảng (thực hành, kĩ năng) cũng là một tác động tới việc lựa chọn, nghiên cứu và áp dụng kĩ năng dạy từ vựng sao cho thích hợp.

Mỗi phương pháp ra đời sau đều được coi như một cố gắng kế thừa những thành tựu và khắc phục nhược điểm của phương pháp ra đời trước nó. Nếu như với phương pháp dạy tiếng Anh truyền thống (phương pháp ngữ pháp – dịch) chú trọng nhiều vào việc học và rèn luyện thành thạo các cấu trúc ngữ pháp, thì với cách tiếp cận giao tiếp tức dạy ngoại ngữ theo phương pháp thực hành giao tiếp việc hình thành ở người học năng lực sử dụng ngôn ngữ thành thạo lại là trọng tâm của quá trình dạy học. Khác với phương pháp nghe nói (audio-lingual) với sự nhấn mạnh đến vai trò của luyện tập thuần thục các mẫu cấu trúc có sẵn, cách giảng dạy theo phương pháp thực hành giao tiếp nhấn mạnh đến khả năng tương tác của người học trong bối cảnh giao tiếp, trong đó mỗi hành vi ngôn ngữ của người học sẽ thay đổi tùy thuộc vào những phản ứng và câu trả lời trước đó của những người cùng tham gia. 

Theo phương pháp giáo dục truyền thống, học ngoại ngữ thường được coi như một quá trình truyền thụ kiến thức từ thầy sang trò thì với việc sử dụng phương pháp thực hành giao tiếp, việc dạy và học ngoại ngữ giờ đây được nhìn nhận như một quá trình khám phá, trong đó người học dần sử dụng ngôn ngữ phù hợp với những mục đích giao tiếp cụ thể. Đây là mô hình dạy học lấy người học làm trung tâm, trong đó cả thầy và trò đều cùng chia sẻ trách nhiệm dạy và học. Song song với việc nhấn mạnh vào mục tiêu phát triển năng lực giao tiếp ở người học, việc lựa chọn các hoạt động học tập sao cho có ích, phù hợp với nhu cầu của người học và phải được đặt vào trong những bối cảnh thật mà người học có nhiều khả năng sẽ gặp phải trong cuộc sống hàng ngày./.

Bài: Nguyễn Thanh Huyền – Khoa Ngôn ngữ và văn hóa Quốc tế Admin2. hoc mua bán đàn guitar tai tphcm công ty thiết kế web tai tphcm cong ty may áo thun đồng phục hoc phát âm tiếng anh chuan khoa học thiết kế web tphcm tphcm mua container văn phòng cu dia chi thay man hinh iphone tai tphcm thiet bi bếp công nghiệp bep nha hang dai ly ống nhựa tiền phong ong nuoc du an Căn hộ Scenic Valley ban thuoc kich duc nu chuyen thi cong phong karaoke vip

Một Số Phương Pháp Dạy Tiếng Anh Tiểu Học Hiệu Quả Bố Mẹ Nhất Định Phải Biết

Tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ giao tiếp chung của xã hội. Vì thế, các em thiếu nhi đã được phụ huynh cho tiếp cận với tiếng Anh ngay từ bé. Vấn đề đặt ra là, ở bậc tiểu học, thầy cô giáo hay các bậc phụ huynh có thể tạo hứng thú cho các bé trong việc học tiếng Anh bằng cách nào là tốt nhất?

Trong bài viết này, Language Link Academic sẽ giới thiệu một số phương pháp dạy tiếng Anh tiểu học hiệu quả nhất, đặc biệt là cách dạy học tiếng Anh tiểu học lớp 4 đến các bạn.

Hiện nay có rất nhiều phương pháp dạy tiếng Anh tiểu học hiệu quả

I. Phương pháp thứ nhất: Làm cho lớp học trở nên vui nhộn bằng trò chơi:

Trẻ nhỏ luôn thích chơi trò chơi thay vì ngồi ngay ngắn học từng chữ một. Hiểu được tâm lí của trẻ nhỏ, các thầy cô giáo hay bậc phụ huynh hoặc bất kì ai đang phải dạy dỗ con em, học trò của mình thì nên áp dụng những phương pháp dạy tiếng Anh tiểu học vui nhộn, năng động cho các em.

Chúng ta có đầy đủ mọi phương tiện hiện đại để tìm hiểu, áp dụng các trò chơi đơn giản nhưng có ích trong việc học tiếng Anh cho các em. Điển hình là các trò chơi sau đây:

Đây là trò chơi rất dễ chơi và phổ biến trong các lớp học hiện nay. Thầy cô giáo hay phụ huynh có thể áp dụng trò chơi này để dạy các em từ vựng mới về các bộ phận cơ thể người (body parts) hay nắm bắt rành rọt nghĩa của các giới từ (prepositions)

* Luật chơi:

– Thầy cô (phụ huynh) sẽ là người nói câu “Simon says” đầu tiên.

– Các em học sinh sẽ hỏi lại:

– Sau đó thầy cô trả lời theo cấu trúc: “Simon says…….”

Ví dụ: thầy cô (phụ huynh) muốn các em học từ vựng về bộ phận cơ thể người thì sẽ nói “Simon says touch your nose” .

Lúc này, các em học sinh sẽ phải xác định từ có nghĩa gì và bắt đầu chạm vào như vậy chúng ta có thể thông qua trò chơi để dạy từ vựng mới cho các em.

Để học một cấu trúc ngữ pháp mới, thầy cô giáo có thể áp dụng phương pháp dạy tiếng Anh tiểu học thông qua trò chơi “ghi nhớ”.

thầy cô sẽ bắt đầu bằng việc nói một câu mẫu, sau đó lần lượt theo thứ tự chỗ ngồi hoặc tên trong danh sách, các em sẽ phải lặp lại câu nói của người nói trước rồi mới đến lượt nói câu của các em. Độ khó của trò chơi này sẽ tăng dần theo số lượng học sinh.

Trò này vừa giúp các em tăng khả năng ghi nhớ, vừa giúp các em ghi nhớ lâu hơn một cấu trúc ngữ pháp mới.

– Thầy cô nói: Yesterday, I went to supermarket with my mother.

– Học sinh sẽ phải lặp lại câu của giáo viên rồi mới nói câu của các em theo cấu trúc Yesterday, I….

Yesterday, I went to supermarket with my mother Yesterday, I did homework with my classmate.

– Và cứ thế, em học sinh tiếp theo sẽ lặp lại 2 câu trên rồi mới nói câu của mình.

Sau khi kết thúc trò chơi, giáo viên sẽ hỏi các em những điểm đặc biệt trong cấu trúc câu nãy giờ các em nói, việc lặp lại nhiều sẽ giúp các em nhận ra được sự khác biệt trong cách dùng thì của động từ bây giờ không còn nguyên mẫu nữa mà ở dạng quá khứ,…

Trò chơi này có thể không phù hợp với các em lớp nhỏ : lớp 1, lớp 2 nhưng đối với việc học tiếng Anh tiểu học lớp 4 hay lớp 5, giáo viên và phụ huynh nên áp dụng trò chơi này để rèn luyện khả năng ghi nhớ của các em cũng như giúp các em nhớ cấu trúc ngữ pháp lâu hơn và nhanh hơn.

II. Phương pháp thứ hai: Sáng tạo trong việc xây dựng bài học và dạy học:

Để có phương pháp dạy tiếng Anh tiểu học tốt, phần nội dung bài học phải được chăm chút thật kĩ và cách dạy học nên thay đổi thường xuyên để không gây sự nhàm chán cho các em học sinh.

Cung cấp thêm hình ảnh, video clip để tăng sự sinh động trong bài học cho trẻ

Về cách dạy học, thầy cô nên linh hoạt trong việc xây dựng các bài tập có làm việc đồng đội, theo cặp hoặc theo nhóm 3 em, 5 em. Thay đổi chỗ ngồi định kì cũng sẽ giúp cho các em có được sự hứng thú mới trong việc học tiếng Anh

III. Phương pháp thứ ba: Không nên gây áp lực cho các em

Các em đều là học sinh nhỏ tuổi, vẫn còn rất ham chơi nên hãy cố gắng để việc học của các em trở nên nhẹ nhàng. Đừng gây bất kì áp lực nào cho các em trong việc học hành nhất là học tiếng Anh vì đây là ngôn ngữ mới, rất cần thời gian để các em làm quen và tiếp thu.

Tải xuống MIỄN PHÍ ngay Bộ tài liệu học tốt tiếng Anh độc quyền của Language Link Academic (cập nhật 2020)!

Kiểm tra tiếng Anh miễn phí ngay cùng chuyên gia khảo thí đến từ Anh Quốc & nhận những phần quà hấp dẫn!

Đón xem series phim hoạt hình học tiếng Anh cho trẻ mẫu giáo và tiểu học, tham gia trả lời các câu hỏi đơn giản, giành ngay những phần quà giá trị!

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Phương Pháp Dạy Kỹ Năng Nghe Trong Tiếng Anh Cho Học Sinh Tiểu Học

tiếng Anh nhƣ là ngôn ngữ thứ nhất và cũng có hàng triệu ngƣời nói tiếng Anh

nhƣ là ngôn ngữ thứ hai. Tiếng Anh có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng trong

sự phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc nói chung và của sự nghiệp giáo dục

đào tạo nói riêng. Để có thể tiếp cận tri thức thế giới, nâng cao chất lƣợng cuộc

sống vật chất và tinh thần của con ngƣời thì việc học tiếng Anh càng trở lên hữu

ích. Tiếng Anh còn là phƣơng tiện cần thiết cho mỗi ngƣời để có thể hòa nhập

vào cộng đồng ASEAN sắp tới. Chính vì vậy, học tiếng Anh từ bậc Tiểu học trở

thành mối quan tâm đặc biệt của học sinh, phụ huynh, giáo viên, ngành giáo dục

Đề án Ngoại ngữ 2020 đã thực hiện đƣợc 6 năm – một khoảng thời gian

không dài nhƣng đủ để giáo viên dạy tiếng Anh nhận ra những tồn tại trong

phƣơng pháp truyền thống từ đó có thể đƣa ra những giải pháp để giúp học sinh

cải thiện các kỹ năng nghe- nói- đọc- viết. Điểm đặc biệt trong đề án ngoại ngữ

2020 là học sinh có nhiều cơ hội để thực hành kỹ năng nghe nói – những kỹ

năng cơ bản khi học một ngôn ngữ. Tuy nhiên để có thể thực hành bốn kỹ năng

nghe nói đọc viết một cách trôi chảy, thuần thục là một việc không hề dễ dàng,

đặc biệt là kỹ năng nghe. Qua thực tế giảng dạy ở nhà trƣờng, bản thân tôi nhận

thấy lúc đầu các em rất thích học tiếng Anh vì khi học các em đƣợc tham gia các

trò chơi, hát các bài hát bằng tiếng Anh, các em học nhƣ chơi mà chơi nhƣ học.

Tuy nhiên, theo thời gian sự thích thú với việc học tiếng Anh của các em giảm

dần, thậm chí có những em sợ học tiếng Anh, đặc biệt là kỹ năng nghe. Trƣớc

tình hình đó, bản thân tôi đã suy nghĩ, trăn trở, quan sát lắng nghe ý kiến của các

em để tìm ra những nguyên nhân của việc hoc sinh sợ học kỹ năng nghe. Và

đƣợc biết rằng trong bài nghe dù các em có thể nghe đƣợc tất cả các câu nhƣng

cũng rất khó để các em có thể hiểu rõ nội dung của câu. Chính vì lẽ đó, trong

quá trình dạy học bản thân tôi tìm hiểu những khó khăn của học sinh trong việc

học kỹ năng nghe kết hợp cùng với vốn kinh nghiệm ít ỏi của mình để đƣa ra

những phƣơng pháp giúp học sinh hứng thú, cải thiện kỹ năng nghe. Với phạm

vi kinh nghiệm nhỏ này tôi mạnh dạn đi sâu vào một vấn đề “Một số phƣơng

pháp dạy kỹ năng nghe trong Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học”

pháp truyền thống từ đó có thể đƣa ra những giải pháp để giúp học sinh cải thiện các kỹ năng nghe- nói- đọc- viết. Điểm đặc biệt trong đề án ngoại ngữ 2020 là học sinh có nhiều cơ hội để thực hành kỹ năng nghe nói - những kỹ năng cơ bản khi học một ngôn ngữ. Tuy nhiên để có thể thực hành bốn kỹ năng nghe nói đọc viết một cách trôi chảy, thuần thục là một việc không hề dễ dàng, đặc biệt là kỹ năng nghe. Qua thực tế giảng dạy ở nhà trƣờng, bản thân tôi nhận thấy lúc đầu các em rất thích học tiếng Anh vì khi học các em đƣợc tham gia các trò chơi, hát các bài hát bằng tiếng Anh, các em học nhƣ chơi mà chơi nhƣ học. Tuy nhiên, theo thời gian sự thích thú với việc học tiếng Anh của các em giảm dần, thậm chí có những em sợ học tiếng Anh, đặc biệt là kỹ năng nghe. Trƣớc tình hình đó, bản thân tôi đã suy nghĩ, trăn trở, quan sát lắng nghe ý kiến của các em để tìm ra những nguyên nhân của việc hoc sinh sợ học kỹ năng nghe. Và đƣợc biết rằng trong bài nghe dù các em có thể nghe đƣợc tất cả các câu nhƣng cũng rất khó để các em có thể hiểu rõ nội dung của câu. Chính vì lẽ đó, trong quá trình dạy học bản thân tôi tìm hiểu những khó khăn của học sinh trong việc học kỹ năng nghe kết hợp cùng với vốn kinh nghiệm ít ỏi của mình để đƣa ra những phƣơng pháp giúp học sinh hứng thú, cải thiện kỹ năng nghe. Với phạm vi kinh nghiệm nhỏ này tôi mạnh dạn đi sâu vào một vấn đề "Một số phƣơng pháp dạy kỹ năng nghe trong Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học". 2 II. Tên sáng kiến: "Một số phƣơng pháp dạy kỹ năng nghe trong Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học". III. Tác giả sáng kiến: - Họ và tên: DƢƠNG QUANG CHIẾN - Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trƣờng Tiểu học Tam Quan I - Xã Tam Quan - Huyện Tam Đảo - Tỉnh Vĩnh Phúc. - Điên thoại: 01693030788 Email: duongquangchien87@gmail.com IV. Chủ đầu tƣ tạo ra sáng kiến: DƢƠNG QUANG CHIẾN V. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Học Tiếng Anh hiện nay đã và đang trở thành nhu cầu thiết yếu phục vụ cho việc giao tiếp, học tập và nghiên cứu trên các lĩnh vực khác nhau. Việc dạy và học theo đề án ngoại ngữ 2020 tạo điều kiện cho học sinh phát triển toàn diện 4 kỹ năng: nghe- nói- đọc - viết. Trong đó kỹ năng nghe đƣợc quan tâm, chú trọng phát triển nhất vì học sinh không thể giao tiếp bằng lời nói nếu không hiểu đƣợc những gì nghe đƣợc. Vậy làm thế nào để góp phần nâng cao chất lƣợng học kỹ năng nghe, giúp học sinh tự tin hơn trong giao tiếp, sử dụng tiếng Anh một cách thành thạo trong từng từ, câu, đặc biệt đối với học sinh ở nông thôn nhƣ ở xã Tam Quan - Huyện Tam Đảo - Tỉnh Vĩnh Phúc. Đề tài này tôi chọn đối tƣợng phục vụ là học sinh khối 5 trƣờng Tiểu học Tam Quan I. VI. Ngày sáng kiến đƣợc áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Sáng kiến đƣợc áp dụng lần đầu vào ngày 21 tháng 9 năm 2015 VII. Mô tả bản chất của sáng kiến: 1.Thực trạng ban đầu: Qua quan sát lắng nghe ý kiến của học sinh, tôi nhận thấy tiếng Anh là môn học khó,có nhiều từ đồng âm khác nghĩa, lời nói trong băng nhanh và nói bằng nhiều giọng khác nhau cùng với ngữ điệu khiến cho học sinh khó có thể hiểu rõ nội dung.Để nắm rõ chất lƣợng học kỹ năng nghe của học sinh các lớp tôi khảo học sinh lớp 5, đối tƣợng đã học tiếng Anh ở lớp 3, 4.Tôi lấy một bài 3 tập nghe của chƣơng trình Tiếng Anh lớp 5-Unit 1 A summer Camp-trang 7. Tôi làm một bài khảo sát kỹ năng nghe đầu năm nhƣ sau: Keys: 1: b 2.b 3.a 4.c Kết quả: TT Lớp Sĩ số Hoàn thành Chƣa hoàn thành SL % SL % 1 5A 32 14 43,8 18 56,2 2 5B 32 12 37,5 20 62,5 3 5C 30 10 33,3 20 66,7 4 5D 29 8 27,6 21 72,4 + 123 44 35,8 79 64,2 - Số các em hoc sinh yêu thích, hứng thú học kỹ năng nghe: 45 em (36,6%). - Số các em hoc sinh không thích học, sợ kỹ năng nghe: 78 em (63,4%). 2. Giải pháp mới sáng tạo: Kết quả trên giúp tôi nhân ra kỹ năng nghe của các em học sinh còn yếu. Các em chƣa hiểu đƣợc bài, chƣa vận dụng đƣợc vốn từ và cấu trúc đã đƣợc học. Tôi suy nghĩ không biết làm thế nào để giúp học sinh cải thiện kỹ năng nghe và có thể nghe tốt tiếng Anh, giúp các em ham học. Trong quá trình giảng dạy môn tiếng Anh, bƣớc đầu rèn luyện cho học sinh các kỹ năng: nghe- nói- 4 đọc - viết, tôi đƣa ra một số kinh nghiệm trong quá trình dạy cũng nhƣ rèn kỹ năng nghe nhƣ sau : A.Luyện kỹ năng nói song hành cùng kỹ năng nghe. Trƣớc khi cho học sinh nghe giáo viên giúp các em học sinh trong lớp luyện nói nhiều. Bởi vì khi luyện nói, học sinh sẽ củng cố đƣợc vốn từ cũng nhƣ cấu trúc ngữ pháp để từ đó phát triển, cải thiện đƣợc kỹ năng nghe. Mặt khác, trong khi nghe khi các em gặp những bài nghe dài, có ngữ điệu và giọng nói khó nghe thì hƣớng dẫn các em chỉ cần nghe lấy ý chính không cần hiểu toàn bộ bài nghe. - Đối với những bài dài các em muốn nghe tốt thì trƣớc tiên các em phải nghe qua một lƣợt sau đó chia ra nhiều đoạn nhỏ để nghe rồi sau đó nghe hết lại một lần. - Chú ý nghe rõ cách phát âm, trọng âm từ, câu và ngữ điệu, hiểu trực tiếp bằng tiếng Anh thì càng tốt, nếu khó thì có thể liên hệ sang tiếng Việt. Nên nhớ khi nghe cần nhìn vào hình ảnh và liên tƣởng ra hình ảnh của sự vật hay sự kiện trong đầu mình. - Trong quá trình nghe nếu gặp phải những từ, câu nghe không hiểu hay không rõ thì có thể dừng băng suy nghĩ ý nghĩa của câu và nghe lại nhiều lần. Nếu nghe mãi không đƣợc thì có thể xem trong "textscript" rồi tập nghe lại. - Chẳng hạn nhƣ Unit 2 : My Friend's house (bài dạy Listen and match- trang 14 tiếng anh 5) 5 + Giáo viên cho học sinh quan sát tranh trong sách giáo khoa trang 14, rồi thiết lập ra tình huống của bài nghe. Lúc này giáo viên yêu cầu học sinh nói cách giới thiệu tên mình, sống ở đâu, nêu tên các nhân vật và tên các phố trong tranh I'm./ My name is.. I live on/in Sau khi thực hành xong, giáo viên yêu cầu học sinh nghe hai lần và gọi học sinh đánh số thứ tự tranh đƣợc nhắc tới. Giáo viên đƣa ra đáp án và sửa lỗi sai của học sinh. Bởi vì các em luyện tập giới thiệu tên mình, sống ở đâu, tên các nhân vật và các con phố trong tranh một cách cụ thể, thì các em sẽ nhớ về các từ vựng mà các em sắp nghe trong đoạn văn một cách dễ dàng. Keys: 1.b 2.c 3.d 4.a Các em càng luyện nói nhiều, kỹ năng nghe của các em càng tiến bộ và phát triển. B. Kế hợp tốt ba bƣớc trong một tiết dạy kỹ năng nghe Việc rèn luyện kỹ năng nghe trong một tiết học nghe đƣợc thực hiện qua 3 bƣớc Pre- listening về nội dung sẽ nghe, gợi trí tò mò, tạo hứng thú cho các hoạt động của bài. - Cho học sinh nghĩ, dự doán nội dung bài nghe. Open - prediction (Dự đoán tình huống, nhân vật) - Dạy từ vựng, cấu trúc mới của bài nghe với lƣợng vừa đủ để học sinh đoán nghĩa của từ trong ngữ cảnh. Open - prediction (Dự đoán tình huống, nhân vật) - Cung cấp mục đích nghe, soạn ra các yêu cầu nhiệm vụ và bài tập về nội dung nghe. 6 - Đối với học sinh tiểu học, nhận thức của các em còn chậm, vì vậy trong hiểu bài nghe nhanh hơn. Một số bài tập dạy trong giai đoạn này: - True / False statements prediction (Dự đoán đúng/sai) - Open - prediction (Dự đoán tình huống, nhân vật) - Ordering (Sắp xếp) - Pre- question (Đặt câu hỏi, trả lời câu hỏi) - Chẳng hạn nhƣ Unit 4 Mai‟s Day Lesson 1 part 3 Listen and tick (sách tiếng anh 5-trang 28) Trƣớc khi cho học sinh nghe, giáo viên yêu cầu học sinh nói tên nhân vật trong chúng tôi đó yêu cầu học sinh nói tên các hoạt động, môn thể thao, tên của từng bức tranh: + She is Mary + 1.a. run b. cycle c. do morning exercise 7 + 2.a. library b. classroom c. bedroom + 3.a. badminton b.volleyball c. table tennis + 4.a. listen to music b. watch T.V c. play computer games Giáo viên chia học sinh thành các nhóm, dùng thủ thuật Open-Prediction cho học sinh đoán đáp án của các tình huống. Giáo viên giới thiệu tình huống và yêu cầu của bài bài: "nghe và chọn đáp án a, b hay c để điền vào chỗ trống" trƣớc khi cho học sinh nghe. . While- listening - Mục đích của các hoạt động trong bƣớc này là nhằm giúp cho học sinh thực hành kỹ năng nghe . - Một số hình thức thể hiện trong bƣớc này: + Matching ( Nối ) + Filling in the grip / chart / gap ( Điền từ vào chỗ trống ) + Answering comprehension questions ( Trả lời câu hỏi ) + Selecting (Trắc nghiệm chọn A, B, C hoặc D + Defining True- False ( Xác định đúng/sai ) + Check the correct answer (Kiểm tra câu trả lời đúng/sai ) + Deliberate mistakes (Sửa lỗi sai) + Listen and draw (Nghe và vẽ hoặc tô màu) - Cho học sinh nghe và làm bài tập, nếu hoạt động trong phần pre-listening là prediction thì trong bƣớc này giáo viên cho học sinh so sánh phần prediction với nội dung bài nghe. - Đối với bài nghe khó giáo viên có thể chia quá trình nghe thành bài tập nghe từ dễ đến khó. - Chẳng hạn nhƣ Unit 4 Mai‟s Day Lesson 1 part 3 Listen and tick (sách tiếng anh 5-trang 28) 8 Sau khi thực hiện Pre-listening, giáo viên cho học sinh nghe băng 2 lần. Giáo viên yêu cầu học sinh nghe và tick vào đáp án đúng a, b hay c để điền vào chỗ trống. . Post- listening Mục đích của các hoạt động sau khi nghe nhằm: - Kiểm tra xem học sinh có hiểu những nội dung nghe theo yêu cầu hay không và có hoàn thành đƣợc các hoạt động trong bƣớc "While- listening" hay không. - Tìm ra nguyên nhân làm cho học sinh không nghe đƣợc hoặc không hiểu nội dung trong bài tập nghe. - Giúp học sinh có cơ hội đánh giá thái độ biểu cảm ngƣời thể hiện hội thoại qua ngữ điệu giao tiếp. Một số thủ thuật trong bƣớc này: + Give answers and feed back : Cho đáp án và thông tin phản hồi. + Repeatation and feed back: Cho học sinh nhắc hay nói lại một số điều /câu đã nghe. +Controlling practice: Tổ chức cho học sinh nói về mình hay về bạn bằng cách dựa vào một vài thông tin trong bài nghe. 9 + Remard others‟ answers:Cho học sinh nêu vài nhận xét về kết quả nghe của nhóm. + Role play:Cho học sinh đóng vai thể hiện lại cuộc hội thoại đã nghe. Chẳng hạn nhƣ Unit 4 Mai‟s Day Lesson 1 part 3 Listen and tick (sách tiếng anh 5-trang 28) + Sau khi cho học sinh nghe băng 2 lần giáo viên gọi 1 vài học sinh đọc đáp án của mình và yêu cầu các em khác nhận xét kết quả trƣớc khi đƣa ra đáp án đúng. + Giáo viên yêu cầu học sinh làm việc theo cặp đóng vai nhân vật Mary nói về các hoạt động trong ngày của Mary. + Giáo viên yêu cầu học sinh làm việc theo cặp nói về những hoạt động mà mình thƣờng làm trong ngày và trình bày trƣớc lớp. Tuỳ theo đặc điểm của từng bài giáo viên có thể tiến hành thực hiện quy trình 3 bƣớc luyện nghe hiểu cho học sinh, đặc biệt là bƣớc thứ nhất sao cho có thể giúp các em hình thành và phát triển hứng thú khả năng tập trung, biết sử dụng thông tin suy đoán điều sẽ nghe. Nhờ vậy học sinh sẽ chủ động và tự tin hơn khi nghe. * Yêu cầu trong tiết dạy nghe cần: + Đảm bảo chất lƣợng mẫu nghe. 10 + Bằng đài có chất lƣợng tốt. + Giáo viên đọc với tốc độ trung bình, phát âm chuẩn xác. C. Kết hợp luyện nghe với các nhóm kỹ thuật khác C. 1 Nhóm kỹ thuật luyện tập cơ sở. Đây là những thủ thuật có ý nghĩa tiền đề trong việc hình thành cho học sinh khả năng nghe tiếng Anh. C.1.1. Tạo cho học sinh thói quen tập trung khi nghe a/ Trong bài nghe giáo viên thƣơng xuyên gọi các em học sinh nhắc lại những câu học sinh đã đƣợc nghe. Đối với học sinh có khả năng nghe tốt giáo viên yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi, nói lại theo ý hiểu của mình. Ví dụ: Học sinh A nói: "Hoa's family has four people: my father, my mother, my sister and me". Sau khi bạn A nói xong, giáo viên gọi bất kì bạn nào trả lời câu hỏi: + How many people does Hoa's family have? b/ Trong quá trình học tập thƣờng xuyên cho học sinh chơi một trò chơi tập trung nghe. Trò chơi thứ nhất: Whisper-Truyền tin. Giáo viên chọn ra 2 đội đứng cách xa nhau để tham gia trò chơi. Mỗi đội có 5 ngƣời xếp thành hàng dọc sao cho khoảng cách giữa mỗi bạn trong một đội là một mét. Giáo viên gọi 2 bạn đứng đầu của mỗi đội lên và nói một câu tiếng anh. Hai học sinh này có nhiệm vụ nói thầm vào tai ngƣời tiếp theo bên đội của mình. Cứ thế, ngƣời này nối tiếp ngƣời kia nói vào tai nhau cho đến ngƣời cuối hàng. Ngƣời cuối hàng có nhiệm vụ nói lớn câu hay đoạn mình nghe đƣợc, và học sinh đầu hàng sẽ xác định đúng hay không. Trò chơi thứ hai: Remember and repeat. nhƣ "Animal". Học sinh đầu tiên sẽ nói 1con vật bất kì, học sinh thứ hai sẽ phải nhắc lại con vật của học sinh thứ nhất và nói thêm con vật của mình mà không đƣợc lặp lại con vật bạn trƣớc đã nói. Các bạn tiếp theo lần lƣợt nhắc lại con vật của các bạn nói trƣớc theo đúng thứ tự và nói thêm một con vật của mình. Ai không nói đƣợc sẽ bị loại.Trò chơi này không những rèn cho học sinh về vốn từ mà còn giúp học sinh tập trung trong khi nghe. C.1.2. Luyện nghe trọng âm của từ và trọng âm của câu. 11 -Ngƣời bản địa khi nghe một từ có nhiều âm tiết họ chỉ nghe trọng âm của từ đó. Ví dụ: Badminton : „bad-min-ton họ nghe chủ yếu trọng âm "bad" chứ không nghe cả 3 âm tiết. Khi nghe một từ nhiều âm tiết, ta nên luyện tập nghe trọng âm của từ đó. - Khi nghe câu, cần chú ý nghe những trọng âm, nhấn mạnh vào danh từ, động từ, đại từ và tân ngữ trong câu rồi phối hợp các trọng âm ấy để đoán nghĩa của toàn câu. Ví dụ khi nghe câu: My father giver this bike to me on my birthday. - Chú ý nghe trọng âm của các từ (từ in đậm) rồi đoán ý nghĩa của câu nói ấy. Với kỹ thuật này tôi luyện cho học sinh vừa nghe vừa đoán nghĩa bằng cách nắm nghe trọng âm của các từ quan trọng trong câu để rồi đoán nghĩa của cả câu. Việc luyện nghe trọng âm từ hay câu cần đƣợc thực hiện không chỉ trong các bài tập nghe mà trong nhiều hoạt động khác nhau của dạy học tiếng Anh: luyện đọc từ mới- Newwords; giới thiệu câu mới- structures ; hoặc thực hiện hoạt động "Before you read" (trƣớc khi đọc), "Listen and repeat" ( nghe và nhắc lại) hoặc "Listen and Read together" ở mỗi đơn vị bài học. C.2. Luyện tập nghe trọng âm trọng tâm Đây là những biện pháp giúp học sinh luyện tập các kỹ năng nghe hiểu một bài hội thoại hay một bài đọc trong sách giáo khoa. Có hai biện pháp chính: C.2.1. Kết hợp phần Listen and repeat or Read : Giáo viên tạo cơ hội luyện nghe cho học sinh bằng cách tận dụng ngữ liệu trong các bài tập để từ đó thiết kế nhiều hình thức bài tập luyện nghe khác nhau. "Listen and repeat" là một bài hội thoại nhằm giới thiệu nội dung chủ điểm và từ vựng, câu mới. Tuy nhiên Listen and repeat bao giờ cũng có những ngữ liệu mà học sinh đã học. Vì vậy có thể tạo các bài nghe khác nhau từ phần này: - Cách thức tiến hành: Trƣớc khi cho học sinh nghe yêu cầu học sinh không dùng sách giáo khoa. Giáo viên giới thiệu tình huống, ngữ cảnh bằng cách sử dụng những tình huống thật trên lớp, hoặc thực tế đời sống gia đình, bạn bè của học sinh, hoặc các chuyện có thật. Mặt khác giáo viê có thể tạo tình huống và ngữ cảnh với sự dung bài sẽ nghe. Bƣớc này nhằm giúp học sinh hứng thú và nhận ra hƣớng chủ đề của bài nghe: 12 Ví dụ :Set the scence: (Thiết lập ngữ cảnh) "Today is Vietnamese teacher's chúng tôi Hoa receive lost of presents from her students" Listen to the dialogue and answer the following questions. 1. What is the date today? 2. Who receive lost of presents? Giáo viên yêu cầu học sinh nghe và trả lời câu hỏi, nhóm nào trả lời đúng và nhanh nhất sẽ đƣợc tuyên dƣơng khen thƣởng. Cho học sinh mở sách rồi nghe đọc lại bài hội thoại, chú ý phát hiện từ mới cũng nhƣ cấu trúc mới và trọng âm của nó. C.2.2. Hƣớng dẫn học sinh chủ động nghe, thay đổi các các bài tập "Listen and number", "Listen and match", "Listen and complete" trong sách giáo khoa một cách sáng tạo. Tuỳ từng bài, giáo viên có thể tiến hành cho học sinh nghe theo ba bƣớc, đặc biệt là bƣớc thứ nhất pre-listening sao cho có thể tạo hứng thú, khả năng tập trung vào những trọng tâm cần nghe và biết sử dụng các thông tin từ chính các câu hỏi hay tranh ảnh, để có thể đoán ra ý nghĩa của câu nghe. Do đó học sinh chủ động và tự tin hơn khi nghe. Trong quá trình giảng dạy tôi luôn tạo cơ hội, khuyến khích các em nghe và yêu cầu các em nghe các bài hát tiếng anh, xem phim nói tiếng Anh, và nghe các bản tin thời sự nói tiếng anh nhiều qua TV, đài, băng đặc biệt là nghe ngƣời bản xứ nói. Ngoài ra, trong kỹ năng nói tôi cũng luôn tạo cơ hội cho các em học sinh trong lớp nhận xét lẫn nhau về: phát âm, trọng âm, ngữ pháp, ngữ điệu.để giúp các em chú ý, tập trung nghe. Qua đó các em có thể sửa sai cho nhau và tự sửa cho chính mình. 3. Khả năng ứng dụng. Phƣơng pháp rèn kỹ năng nghe cho học sinh Tiểu học, theo tôi là một phƣơng pháp tích cực, tối ƣu và hiệu quả trông thấy, có thể áp dụng đối với tất cả học sinh các khối 3,4,5. Bởi lẽ, phƣơng pháp này đã đƣợc kiểm chứng qua thực tế giảng dạy, khảo sát kỹ năng nghe cuối năm đạt kết quả cao và đƣợc các thành viên trong tổ chuyên môn phân tích, đánh giá, nhất trí cao. 13 VIII.Những thông tin bảo mật: Không IX. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Để có thể áp dụng sáng kiến "Một số phƣơng pháp dạy kỹ năng nghe trong Tiếng Anh cho học sinh tiểu học". cho tất cả các khối 3, 4, 5 cần phải có các điều kiện cần thiết sau: - Nhà trƣờng phải có đầy đủ cơ sở vật chất tạo điều kiện cho dạy tiếng anh: đài hoặc đầu đĩa, laptopv.v. - Giáo viên tiếng anh cần phải đạt chuẩn, đã tham gia khoá bồi dƣỡng "Đề án ngoại ngữ 2020" và có bằng B2. - Các lớp đƣợc áp dụng sáng kiến phải học 4 tiết/tuần. X. Đánh giá lợi ích thu đƣợc hoặc dự kiến có thể thu đƣợc do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: - Qua các tiết dạy, lắng nghe ý kiến của học sinh và so sánh chất lƣợng của các lớp, các khối. Trong quá trình dạy tôi nhận thấy các em không còn phải lo sợ khi đến tiết học nghe, các em hứng thú học nghe và kết quả tiếp thu bài của học sinh tốt hơn. Kết quả khảo sát kỹ năng nghe khối 5 đầu năm học: TT Lớp Sĩ số Hoàn thành Chƣa hoàn thành SL % SL % 1 5A 32 14 43,8 18 56,2 2 5B 32 12 37,5 20 62,5 3 5C 30 10 33,3 20 66,7 4 5D 29 8 27,6 21 72,4 + 123 44 35,8 79 64,2 14 Kết quả đạt đƣợc qua đợt khảo sát kỹ năng nghe cuối năm khối 5: TT Lớp Sĩ số Hoàn thành Chƣa hoàn thành SL % SL % 1 5A 32 25 78,1 7 21,9 2 5B 32 23 71,9 9 28,1 3 5C 30 21 70 9 30 4 5D 29 22 75,9 7 24,1 + 123 91 74 32 26 So sánh: So với kết quả khảo sát đầu năm tôi thấy: - Tỉ lệ các em học sinh hoàn thành kỹ năng nghe so với đầu năm tăng lên: 74%. - Tỉ lệ các em học sinh chƣa hoàn thành kỹ năng nghe so với đầu năm giảm còn: 26%. - Số các em hoc sinh thích, hứng thú học kỹ năng nghe so với đầu năm tăng lên: 90 em (73,2%). - Số các em hoc sinh không thích học, sợ kỹ năng nghe so với đầu năm giảm còn: 33 em (26,8%). 15 XI. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu: Số TT Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực áp dụng sáng kiến 1 Dƣơng Quang Chiến Trƣờng TH Tam Quan I -Xã Tam Quan - Tam Đảo - Vĩnh Phúc. Kỹ năng nghe Tiếng Anh Tam Quan, ngày 29 tháng 3 năm 2016 XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƢỞNG ĐƠN VỊ Trần Xuân Ngọc Tam Quan, ngày 29 tháng 3 năm 2016 Tác giả sáng kiến Dƣơng Quang Chiến

Một Số Biện Pháp Đổi Mới Phương Pháp Dạy Học

Các phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, luyện tập luôn là những phương pháp quan trọng trong dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học truyền thống quen thuộc mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của chúng. Để nâng cao hiệu quả của các phương pháp dạy học này người giáo viên trước hết cần nắm vững những yêu cầu và sử dụng thành thạo các kỹ thuật của chúng trong việc chuẩn bị cũng như tiến hành bài lên lớp, chẳng hạn như kỹ thuật mở bài, kỹ thuật trình bày, giải thích trong khi thuyết trình, kỹ thuật đặt các câu hỏi và xử lý các câu trả lời trong đàm thoại, hay kỹ thuật làm mẫu trong luyện tập. Tuy nhiên, các phương pháp dạy học truyền thống có những hạn chế tất yếu, vì thế bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học mới, đặc biệt là những phương pháp và kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh. Chẳng hạn có thể tăng cường tính tích cực nhận thức của học sinh trong thuyết trình, đàm thoại theo quan điểm dạy học giải quyết vấn đề.

Không có một phương pháp dạy học toàn năng phù hợp với mọi mục tiêu và nội dung dạy học. Mỗi phương pháp và hình thức dạy học có những ưu, nhựơc điểm và giới hạn sử dụng riêng. Vì vậy việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học. Dạy học toàn lớp, dạy học nhóm, nhóm đôi và dạy học cá thể là những hình thức xã hội của dạy học cần kết hợp với nhau, mỗi một hình thức có những chức năng riêng. Tình trạng độc tôn của dạy học toàn lớp và sự lạm dụng phương pháp thuyết trình cần được khắc phục, đặc biệt thông qua làm việc nhóm.

Trong thực tiễn dạy học ở trường trung học hiện nay, nhiều giáo viên đã cải tiến bài lên lớp theo hướng kết hợp thuyết trình của giáo viên với hình thức làm việc nhóm, góp phần tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Tuy nhiên hình thức làm việc nhóm rất đa dạng, không chỉ giới hạn ở việc giải quyết các nhiệm vụ học tập nhỏ xen kẽ trong bài thuyết trình, mà còn có những hình thức làm việc nhóm giải quyết những nhiệm vụ phức hợp, có thể chiếm một hoặc nhiều tiết học, sử dụng những phương pháp chuyên biệt như phương pháp đóng vai, nghiên cứu trường hợp, dự án. Mặt khác, việc bổ sung dạy học toàn lớp bằng làm việc nhóm xen kẽ trong một tiết học mới chỉ cho thấy rõ việc tích cực hoá “bên ngoài” của học sinh. Muốn đảm bảo việc tích cực hoá “bên trong” cần chú ý đến mặt bên trong của phương pháp dạy học, vận dụng dạy học giải quyết vấn đề và các phương pháp dạy học tích cực khác.

Dạy học giải quyết vấn đề (dạy học nêu vấn đề, dạy học nhận biết và giải quyết vấn đề) là quan điểm dạy học nhằm phát triển năng lực tư duy, khả năng nhận biết và giải quyết vấn đề. Học được đặt trong một tình huống có vấn đề, đó là tình huống chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, thông qua việc giải quyết vấn đề, giúp học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ năng và phương pháp nhận thức. Dạy học giải quyết vấn đề là con đường cơ bản để phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh, có thể áp dụng trong nhiều hình thức dạy học với những mức độ tự lực khác nhau của học sinh.

Các tình huống có vấn đề là những tình huống khoa học chuyên môn, cũng có thể là những tình huống gắn với thực tiễn. Trong thực tiễn dạy học hiện nay, dạy học giải quyết vấn đề thường chú ý đến những vấn đề khoa học chuyên môn mà ít chú ý hơn đến các vấn đề gắn với thực tiễn. Tuy nhiên nếu chỉ chú trọng việc giải quyết các vấn đề nhận thức trong khoa học chuyên môn thì học sinh vẫn chưa được chuẩn bị tốt cho việc giải quyết các tình huống thực tiễn. Vì vậy bên cạnh dạy học giải quyết vấn đề, lý luận dạy học còn xây dựng quan điểm dạy học theo tình huống.

Phương pháp nghiên cứu trường hợp là một phương pháp dạy học điển hình của dạy học theo tình huống, trong đó học sinh tự lực giải quyết một tình huống điển hình, gắn với thực tiễn thông qua làm việc nhóm.

Vận dụng dạy học theo các tình huống gắn với thực tiễn là con đường quan trọng để gắn việc đào tạo trong nhà trường với thực tiễn đời sống, góp phần khắc phục tình trạng giáo dục hàn lâm, xa rời thực tiễn hiện nay của nhà trường phổ thông.

Tuy nhiên, nếu các tình huống được đưa vào dạy học là những tình huống mô phỏng lại, thì chưa phải tình huống thực. Nếu chỉ giải quyết các vấn đề trong phòng học lý thuyết thì học sinh cũng chưa có hoạt động thực tiễn thực sự, chưa có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành.

Dạy học định hướng hành động là quan điểm dạy học nhằm làm cho hoạt động trí óc và hoạt động chân tay kết hợp chặt chẽ với nhau. Trong quá trình học tập, học sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập và hoàn thành các sản phẩm hành động, có sự kết hợp linh hoạt giữa hoạt động trí tuệ và hoạt động tay chân. Đây là một quan điểm dạy học tích cực hoá và tiếp cận toàn thể. Vận dụng dạy học định hướng hành động có ý nghĩa quan trong cho việc thực hiện nguyên lý giáo dục kết hợp lý thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội.

Dạy học theo dự án là một hình thức điển hình của dạy học định hướng hành động, trong đó học sinh tự lực thực hiện trong nhóm một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với các vấn đề thực tiễn, kết hợp lý thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể công bố. Trong dạy học theo dự án có thể vận dụng nhiều lý thuyết và quan điểm dạy học hiện đại như lý thuyết kiến tạo, dạy học định hướng học sinh, dạy học hợp tác, dạy học tích hợp, dạy học khám phá, sáng tạo, dạy học theo tình huống và dạy học định hướng hành động.

Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học, nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy học. Việc sử dụng các phương tiện dạy học cần phù hợp với mối quan hệ giữa phương tiện dạy học và phương pháp dạy học. Hiện nay, việc trang bị các phương tiện dạy học mới cho các trường phổ thông từng bước được tăng cường. Tuy nhiên các phương tiện dạy học tự làm của giáo viên luôn có ý nghĩa quan trọng, cần được phát huy.

Đa phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương tiện dạy học trong dạy học hiện đại. Đa phương tiện và công nghệ thông tin có nhiều khả năng ứng dụng trong dạy học. Bên cạnh việc sử dụng đa phương tiện như một phương tiện trình diễn, cần tăng cường sử dụng các phần mềm dạy học cũng như các phương pháp dạy học sử dụng mạng điện tử (E-Learning). Phương tiện dạy học mới cũng hỗ trợ việc tìm ra và sử dụng các phương pháp dạy học mới. Webquest là một ví dụ về phương pháp dạy học mới với phương tiện mới là dạy học sử dụng mạng điện tử, trong đó học sinh khám phá tri thức trên mạng một cách có định hướng.

Kỹ thuật dạy học là những cách thức hành động của của giáo viên và học sinh trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Các kỹ thuật dạy học là những đơn vị nhỏ nhất của phương pháp dạy học. Có những kỹ thuật dạy học chung, có những kỹ thuật đặc thù của từng phương pháp dạy học, ví dụ kỹ thuật đặt câu hỏi trong đàm thoại. Ngày nay người ta chú trọng phát triển và sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học như “động não”, “tia chớp”, “bể cá”, XYZ, Bản đồ tư duy…

Phương pháp dạy học có mối quan hệ biện chứng với nội dung dạy học. Vì vậy bên cạnh những phương pháp chung có thể sử dụng cho nhiều bộ môn khác nhau thì việc sử dụng các phương pháp dạy học đặc thù có vai trò quan trọng trong dạy học bộ môn. Các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn được xây dựng trên cơ sở lý luận dạy học bộ môn. Ví dụ:

thí nghiệm là một phương pháp dạy học đặc thù quan trọng của các môn khoa học tự nhiên;

các phương pháp dạy học như trình diễn vật phẩm kỹ thuật, làm mẫu thao tác, phân tích sản phẩm kỹ thuật, thiết kế kỹ thuật, lắp ráp mô hình, các dự án là những phương pháp chủ lực trong dạy học kỹ thuật;

phương pháp “Bàn tay nặn bột” đem lại hiệu quả cao trong việc dạy học các môn khoa học;…

Phương pháp học tập một cách tự lực đóng vai trò quan trọng trong việc tích cực hoá, phát huy tính sáng tạo của học sinh. Có những phương pháp nhận thức chung như phương pháp thu thập, xử lý, đánh giá thông tin, phương pháp tổ chức làm việc, phương pháp làm việc nhóm, có những phương pháp học tập chuyên biệt của từng bộ môn. Bằng nhiều hình thức khác nhau, cần luyện tập cho học sinh các phương pháp học tập chung và các phương pháp học tập trong bộ môn.

Ngoài ra, phương pháp dạy học còn mang tính chủ quan. Mỗi giáo viên với kinh nghiệm riêng của mình cần xác định những phương hướng riêng để cải tiến phương pháp dạy học và kinh nghiệm của cá nhân.