Top 3 # Xem Nhiều Nhất Nguyên Nhân Hậu Quả Sự Bùng Nổ Dân Số Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Cuocthitainang2010.com

Bùng Nổ Dân Số Trên Thế Giới

Tiểu luận Bùng nổ dân số trên thế giới

1

MỞ ĐẦU

Ngày nay, khái niệm “con quái vật dân số” hay “quả bom dân số” đã trở lên không còn xa lạ gì với mỗi chúng ta. Gọi như vậy phần nào đã cho chúng ta một cái nhìn khái quát nhất về tính nguy hại và cấp thiết, cũng như những áp lực mà vấn đề dân số gây ra cho chúng ta. Trong vòng bốn thập niên trở lại đây, nhân loại đã có cái nhìn khác về vấn đề dân số, đã không còn quan niệm “trời sinh voi trời sinh cỏ” nữa mà thay vào đó, con người đã có cái nhìn nghiêm túc hơn trước thực trạng diễn biễn ngày càng phức tạp của vấn đề dân số. Trong bài tiểu luận này, chúng tôi chỉ muốn đề cập tới nguyên nhân và thực trạng của vấn đề bùng nổ dân số- vấn đề đang làm đau đầu lãnh đạo nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam- để từ đó làm sang tỏ vấn đề bùng nổ dân số hiện đã vượt ra ngoài biên giới của một quốc gia, một khu vực và đã trở thành một vấn đề toàn cầu. Bài tiểu luận của nhóm chúng tôi được chia làm 3 phần I. Khái niệm và thực trạng của vấn đề bùng nổ dân số II. Nguyên nhân bùng nổ dân số III. Tại sao vấn đề dân số lại được coi là vấn đề toàn cầu

2

I. Khái niệm và thực trạng vấn đề bùng nổ dân số trên thế giới 1. Khái niệm – Dân số là tập hợp những người sinh sống trong cùng một quốc gia, khu vực, vùng địa lí kinh tế hoặc một đơn vị hành chính. – Bùng nổ dân số là sự gia tăng dân số quá nhanh trong một thời gian ngắn,gây ảnh hưởng tiêu cực đến mọi mặt của đời sống xã hội1. Như vậy bản chất của bùng nổ dân số chính là sự tăng lên nhanh chóng một cách đột biến của số lượng người sinh sống trong phạm vi của một quốc gia, khu vực, vùng địa lí, hay nói rộng ra đó là sự gia tăng trên phạm vi toàn cầu. 2. Thực trạng vấn đề bùng nổ dân số Chúng tôi sẽ xem xét vấn đề bùng nổ dân số trên hai cấp độ: cấp độ quốc tế và cấp độ quốc gia. a. Cấp độ quốc tế Dân số phát triển với tốc độ chóng mặt. Xét trong toàn bộ tiến trình lịch sử xã hội cho đến nay,tỉ lệ phát triển dân số trên phạm vi toàn thế giới ngày càng cao. Vào những năm công nguyên,dân số thế giới chỉ vào khoảng 250 triệu người .Cách đó 1.600 năm, dân số thế giới tăng trưởng rất chậm, đến năm 1650 dân số thế giới chỉ tăng gấp đôi con số trên. Năm 1825,dân số thế giới lên đến 1 tỉ người.

1

Từ điển bách khoa toàn thư

3

Năm 1925 dân số thế giới là 2 tỉ người. 50 năm tiếp theo dân số thề giới tăng gấp đôi,tức là vào năm 1975 đạt tới 4 tỉ người. Năm 1987,vào ngày 11 tháng 7,dân số thế giới tròn 5 tỉ người,tức là chỉ cần 12 năm để tăng thêm 1 tỉ người.1 Dân số thế giới đã vượt qua ngưỡng 6 tỉ người vào cuối thập kỷ XX, đạt 6,616 tỉ người vào năm 2007, với tỷ lệ tăng dân số hằng năm 1,2% (so với 2% của những năm thập kỷ 60 của thế kỷ XX). Chỉ trong vòng 12 năm, thế giới đã tăng thêm 1 tỉ dân (từ 1987 – 1999), là giai đoạn ngắn nhất trong lịch sử loài người để có thêm 1 tỉ dân và 1 tỉ tiếp theo sẽ đạt được sau 13 năm. Theo dự báo, dân số thế giới sẽ tăng thêm 2,6 tỉ trong vòng 45 năm tới, tức đến năm 2050 dân số thế giới sẽ đạt 9,1 tỉ người . Như vậy có thể thấy thời gian để dân số thế giới tăng thêm gấp đôi, cũng như thời gian để Trái Đất đón thêm 1 tỉ công dân mới ngày càng được rút ngắn một cách nhanh chóng. Người ta tính rằng cứ 6 tháng dân số thế giới lại tăng thêm bằng số dân của nước Pháp (50 triệu) và cứ sau 10 năm lại có một nước Trung Quốc ra đời ở những vùng nghèo nàn nhất trên Trái Đất2. Đó quả thật là những con số khủng khiếp. Tuy nhiên tốc độ tăng dân số ở các khu vực khác nhau trên thế giới là không giống nhau. Có một nghịch lí là khu vực các nước nghèo và kém phát triển nhất lại là những khu vực có tốc độ tăng dân số nhanh nhất. Theo điều tra của Cục Điều tra dân số Mỹ, tốc độ tăng dân số nhanh nhất lại là ở các khu vực nghèo khổ nhất tại châu Phi, Trung Đông và tiểu lục địa Ấn Độ, nơi trung bình một phụ nữ đẻ 7 con. Trong tương lai gần, tốc độ phát triển dân số nhanh nhất vẫn là khu vực châu Phi và Nam Á. Trong vòng nửa đầu thế kỉ XXI, dân số châu Phi sẽ tăng khoảng 2,4- 3 lần, cao hơn tốc độ tăng dân số toàn cầu khoảng 1,7-1,8 lần. Cũng

Nguyễn Trần Quế, Những vấn đề toàn cầu hóa ngày nay, tr.71 Nguyễn Trần Quế, những vấn đề toàn cầu hóa ngày nay, tr 23

4

như vậy tốc độ tăng dân số ở khu vực Nam Á cũng cao hơn tốc độ tăng dân số toàn cầu 10-15%. Chỉ tính riêng trong giai đoạn 2000 – 2005, theo thống kê của Liên hợp quốc, hằng năm dân số thế giới tăng thêm khoảng 76 triệu người, trong đó 6 nước có số dân tăng thêm chiếm 45% là Ấn Độ (số dân tăng thêm chiếm 22%), Trung Quốc (11%), Pa-ki-xtan, Ni-giê-ri-a, Mỹ, Băng-la-đét (mỗi nước 4%). Ngoài ra, 16 nước khác có số dân tăng thêm chiếm 25%, trong đó In-đô-nê-xi-a (số dân tăng hằng năm 2,7 triệu), Băng-la-đét (2,6 triệu), Bra-xin (2,5 triệu), Ê-ti-ô-pi-a (1,8 triệu), Cộng hòa Công-gô (1,5 triệu), Phi-líp-pin (1,5 triệu), Mê-hi-cô (1,4 triệu), Ai-cập (1,3 triệu), Áp-ga-ni-xtan (1,2 triệu), Việt Nam (1,1 triệu), Thổ Nhĩ Kỳ (1 triệu), U-gan-đa (0,9 triệu), I-rắc (0,7 triệu), Kê-ni-a (0,7 triệu), Cộng hòa Tan-dani-a (0,7 triệu), Cô-lôm-bi-a (0,7 triệu) và Xu-đăng (0,7 triệu). Trong khi dân số của nhiều nước, đặc biệt là ở châu Phi và châu Á tiếp tục gia tăng trong vài thập niên tới, thì ở một số nước phát triển đạt dưới mức sinh thay thế lại có xu thế suy thoái dân số trong vòng 50 năm (2000 – 2050) như CHLB Nga (số dân giảm 35 triệu), U-crai-na (23 triệu), Nhật (15 triệu), Ba-lan (7 triệu), Ru-ma-ni (5 triệu), CHLB Đức (4 triệu), Bê-la-rút và Bun-ga-ri (3 triệu)1. Như vậy, sức ép dân số đối với đa số các nước đang phát triển, trong đó có nước ta do số dân tăng thêm hằng năm còn rất lớn trước đời sống kinh tế, chính trị và xã hội, hạn chế đến khả năng cải thiện, phát triển và tiềm ẩn nguy cơ tụt hậu.Dân số tăng nhanh nằm ở khu vực những nước đang phát triển, với hơn 95% sự gia tăng dân số nằm ở khu vực này: Hiện nay, dân số thế giới đang gia tăng với tỷ lệ trung bình là 1,2%/năm. Cục điều tra dân số Mỹ dự báo, tốc độ này sẽ giảm xuống còn 0,5% năm 2050. Khi đó, Ấn Độ sẽ vượt Trung Quốc trở thành nước đông dân nhất thế giới. b. Cấp độ quốc gia

1

Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam

5

Trong tiến trình toàn cầu hóa hiện nay, có một vấn đề nan giải đó là sự tăng nhanh dân số ở khu vực các thành phố lớn. Tỷ lệ dân cư tại các thành phố, đặc biệt là các thành phố lớn ngày càng cao. Năm 1955, dân số đô thị là 872 triệu người (chiếm 32% dân số toàn cầu), năm 1975 là 1,5 tỉ người (chiếm 38%), năm 1995 là 2,6 tỉ người (chiếm 45%). Theo dự báo của Liên Hợp Quốc, tới năm 2025 số dân sống ở các đô thị sẽ chiếm 60% dân số toàn cầu. Số thành phố có trên 10 triệu dân cũng tăng lên nhanh chóng. Nếu như năm 1975 mới chỉ có 5 thành phố như vậy thì tới năm 1995 đã có 14 thành phố, theo dự đoán thì tới năm 2025 chỉ riêng châu Á sẽ có tới 20 thành phố trên 10 triệu dân.1 Khi dân số đô thị toàn cầu bùng nổ (cứ 38 năm lại tăng gấp đôi) các thành phố lớn nhất thế giới ngoại trừ Tokyo sẽ bị tuột xuống cuối danh sách vào năm 2015 và thay thế chúng là các đô thị nhỏ hơn mà ở đó đang có sự bùng nổ dân cư, cũng theo dự đoán này, Bombay và New Delhi sẽ trở thành các thành phố lớn thứ hai và thứ ba trên thế giới thay thế cho Mexico city và New York hiện nay. II. Nguyên nhân bùng nổ dân số Sự chênh lệch lớn về tỷ lệ sinh tử: trong giai đoạnđầu phát triển lịch sử phát triển của nhân loại, tỷ lệ sinh tương đối cao do nhu cầu duy trì nòi giống và nhu cầu lực lượng sản xuất phục vụ phát triển xã hội, trong khi đó tỉ lệ tử cũng tương đối cao do điều kiện sống hạn chế, thiên tai, dịch bệnh nhiều… Do đó, trong giai đoạn này tỷ lệ sinh và tử tương đối cân bằng. Ngược lại, trong giai đoạn “bùng nổ dân số” tỷ lệ sinh vẫn tiếp tục được duy trì trong khi đó tỷ lệ tử có xu hướng giảm do điều kiện sống được nâng cao, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, các nhu cầu cơ bản của con người được chú trọng đặc biệt là trong công tác vệ sinh và y tế dẫn tới tỉ lệ tử giảm xuống. Thêm vào đó, tuổi thọ của con người được nâng cao dần, năm 1975 tuổi trung bình của dân cư thế giới là 21,9 tuổi, tới năm 2000 là 26,6 tuổi. Quá trình toàn cầu hóa đã mang lại cho các

1

Nguyễn Trọng Chuẩn, Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỉ XXI, tr.195

6

quốc gia kém phát triển khả năng tiếp cận với những tiến bộ khoa học kĩ thuật. Những căn bệnh trước kia được coi là nan y đã tìm ra phương pháp chữa trị, người dân đã biết sử dụng rộng rãi các loại thuốc văc-xin, thuốc kháng sinh.. Mặt khác khoa học kĩ thuật cũng góp phần làm giảm tỉ lệ tử ở trẻ sơ sinh, mang lại nhiều cơ hội cho các cặp vợ chồng hiếm muộn… Chính những yếu tố trên đã làm nảy sinh tình trạng mất cân bằng giữa sinh và tử, dẫn đến tình trạng tăng dân số một cách chóng mặt. Nhu cầu về lực lượng sản xuất: ở các quốc gia kém phát triển, những nơi mà khoa học kỹ thuật chưa mấy phát triển và việc áp dụng khoa học và sản xuất còn rất hạn chế, lực lượng sản xuất vẫn chỉ mới ở trình độ cơ khí thủ công, sử dụng lao động cơ bắp, lao động chân tay là chủ yếu, cộng với những nguồn năng lượng có sẵn trong tự nhiên để sản xuât, trong xã hội như vậy thì dân số càng tăng, sức lao động càng nhiều, càng đẩy mạnh sức sản xuất xã hội. Do đó mà dân số thế giới của chúng ta không ngừng tăng lên một cách nhanh chóng, để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của từng quốc gia . Quan niệm lạc hậu: ở một số nước đặc biệt là các nước phương đông vẫn còn một số quan niệm lạc hậu: sinh nhiều con, tư tưởng trọng nam khinh nữ, muôn sinh con trai… Điều này có thể thấy rất rõ ở Việt Nam, tại các vùng dân tộc thiểu số hoặc các vùng nông thôn thường có tư tưởng sinh càng nhiều càng tốt và nhất thiết phải có con trai, do đó mà ở các vùng này gia đình nào cũng có 3 con trở lên. Ở các nước này vai trò và địa vị của người phụ nữ vẫn còn rất thấp, phụ nữ nhiều nơi vẫn chưa được giải phóng hoàn toàn. Ngược lại có thể thấy ở các quốc gia phát triển phương Tây, nơi mà người phụ nữ khá bình đẳng với nam giới và tham gia ngày càng nhiều vào lực lượng lao động của xã hội thì tỉ lệ sinh rất thấp, chính quyền nhiều nước còn phải đề ra các chính sách khuyến khích tăng tỉ lệ sinh. Ở một số nước nghèo và các nước đang phát triển thì vấn đề tiếp cận, và nhận thức về dân số còn rất hạn chế, đặc biệt là châu phi và một số nước ở châu Á, kinh tế nghèo đói, lương thực không đủ ăn chua nói đến vấn đề tiếp cận đến vấn đề giáo dục dân số và kế hoạch hóa gia đình. Họ thiếu những kiến thức và phương tiện cơ 7

bản về phòng tránh thai. Thậm chí nhiều khi chính các nhà lãnh đạo cũng có nhận thức chưa đầy đử về vấn đề này, ví dụ cách đây 8 năm thị trưởng thành phố Mannila đã ra lệnh cấm các trung tâm y tế cung cấp các biện pháp ngừa thai hiện đại như bao cao su, thuốc tránh thai và triệt sản nhằm mục đích bảo vệ các giá trị cuộc sống??

III. Tại sao “Bùng nổ dân số” lại là vấn đề toàn cầu Cũng như mọi vấn đề toàn cầu khác, vấn đề bùng nổ dân số cũng sẽ được chúng tôi nhìn nhận dưới 3 góc độ là :phạm vi tác động, hậu quả tác động và việc đòi hỏi sự chung sức của toàn nhân loại. 1. Phạm vi tác động của vấn đề: Vấn đề bùng nổ dân số có thể được nhìn nhận từ hai góc độ. Trên phạm trù quốc tế, có một thực tế là hiện nay vấn đề bùng nổ dân số chỉ diễn ra chủ yếu ở các nước đang phát triển và chậm phát triển, có thể thấy 60% dân số tập trung tại các nước châu Á và châu Phi, các khu vực còn lại như châu Âu và châu Mỹ dân số chỉ chiếm 40% dân số thế giới. Điều đáng lo ngại hơn là các khu vực kém phát triển này tốc độ tăng dân số luôn ở mức cao hơn rất nhiều so với các nước phát triển. Trong giai đoạn 2000 – 2005, theo thống kê của Liên hợp quốc, hằng năm dân số thế giới tăng thêm khoảng 76 triệu người, trong đó 6 nước có số dân tăng thêm chiếm 45% và 16 nước khác có số dân tăng thêm chiếm 25% thì ngoài 4 nước là Mỹ, Côlômbia, Mêhicô và Braxin ra thì còn lại đều là các quốc gia châu Á và châu Phi, và ngoài trừ Mỹ, Ấn Độ, Braxin, Trung Quốc ra thì các nước còn lại đều là các nước đang và kém phát triển. Trong khi đó thì ở một số nước phát triển như Nga, Nhật hay CHLB Đức đạt dưới mức sinh thay thế lại có xu thế suy thoái dân số trong vòng 50 năm (2000 – 2050). Như vậy nhìn vào bề mặt của vấn đề có thể nhiều người sẽ nghĩ vấn đề bùng nổ dân số chỉ là vấn đề của các nước đang phát 8

triển, và quả thật những hậu quả mà vấn đề bùng nổ dân số mang lại cho các nước này là không phải bàn cãi. Nhưng trong thời đại ngày nay không một vấn đề nào có thể tách ra riêng lẻ mà nó luôn có liên hệ chặt chẽ với các vấn đề khác. Vân đề bùng nổ dân số cũng vậy. Có thể có người sẽ suy nghĩ rằng Việt Nam sinh nhiều thì ảnh hưởng gì tới Mỹ? Đúng là không ảnh hưởng nhiều thật nếu chỉ có Việt Nam nhưng trên thực tế, ngoài Việt Nam ra còn có rất nhiều các nước thế giới thứ 3 khác cũng đang trong tình trạng như vậy,điều đó sẽ mang lại những ảnh hưởng không nhỏ tới các quốc gia khác, đặc biệt là các nước phát triển. Một điều tất yếu là khi dân số trong nước quá đông thì người ta sẽ phải tìm đường sang các nước khác, chủ yếu là các nước phát triển. Điều mà chúng tôi muốn nói tới là vấn đề người nhập cư và di dân. Mặc dù trong chiến tranh thế giới II đã từng xuất hiện một làn sóng di cư ồ ạt từ các nước, các khu vực có chiến sự sang nước Mỹ, nguồn nhập cư này đã góp phần không nhỏ vào thành công của nước Mỹ sau này, tuy nhiên vấn đề hiện nay là mặc dù nhiều nước đã thắt chặt chính sách người nhập cư nhưng số lượng người nhập cư vẫn không giảm, chủ yếu là qua con đường nhập cư bất hợp pháp. Nhập cư bất hợp pháp sẽ dẫn tới những hậu quả không nhỏ cho các nước phát triển cả về an ninh và xã hội. Đó là tình trạng tội phạm gia tăng, xã hội bất ổn, xung đột giữa các nhóm sắc tộc. Ngoài ra xét trên phạm trù quốc gia, trong từng nước đều đang phải đối mặt với tình trạng bùng nổ dân số ở khu vực thành thị. Và trong những thành phố có tốc độ tăng dân số nhanh nhất thì có cả những thành phố rất phát triển như Tokyo hay New york. Do đó có thể thấy ngay cả trong các quốc gia phát triển nhất vẫn phải đối mặt với vấn đề bùng nổ dân số trong phạm vi cục bộ. 2. Hậu quả tác động của Bùng nổ dân số Có thể khẳng định vấn đề này có ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn vong của nhân loại. Có thể nhiều người sẽ cho rằng việc có nhiều người thì sao có thể khiến cho nhân loại diệt vong được, bởi nếu nhìn vào giới tự nhiên thì có thể thấy những

9

loài động vật bị tuyệt chủng hoặc đe dọa tuyệt chủng đều là những loài có số lượng ít ỏi. Phải chăng nếu số lượng người trên Trái Đất càng nhiều thì càng đảm bảo chắc chắn hơn cho sự tồn tại của nhân loại chứ? Tuy nhiên thực tế không phải như vậy, các nhà khoa học đã tính toán rằng các tài nguyên trên Trái Đất chỉ có thể nuôi sống tối đa được khoảng 11 tỉ người mà thôi. Nếu dân số không được kiểm soát mà vẫn tiếp tục tăng trưởng một cách vô hạn như hiện nay thì viễn cảnh về một ngày tận thế sẽ không còn là quá xa vời, và nguyên nhân của điều đó chính là nằm ở chúng ta. Nếu để ý có thể thấy rất nhiều vấn đề toàn cầu khác chính là xuất phát từ vấn đề bùng nổ dân sô. a. Dân số và vấn đề nghèo đói, lạc hậu Ở phương Tây, có tác giả cho rằng: nếu dân số tăng lên 1% thì thu nhập quốc dân tăng khoảng 4%. Ở nhiều nước kém phát triển thuộc châu Phi, tỉ lệ tăng dân số hàng năm rất cao lên đến 3%, nếu muốn đảm bảo nhu cầu cho số dân mới tăng đó thì thu nhập quốc dân bình quân mỗi năm phải tăng khoảng 13%, điều đó là vô cùng khó khăn ngay cả với một quốc gia phát triển chứ đừng nói là một quốc gia kém phát triển. Trong phạm vi một quốc gia, việc bùng nổ dân số sẽ khiến cho mức sống của người dân trong nước bị hạ xuống,mức sống của người dân giảm dẫn tới các dịch vụ chăm sóc tối thiểu không được đáp ứng, dịch bệnh gia tăng. Trên phạm vi quốc tế, bùng nổ dân số sẽ dẫn tới sự chênh lệch trong phân phối của cải giữa các khu vực, khiến cho những nước giàu vẫn cứ giàu, những nước nghèo vẫn cứ nghèo, mặt bằng chất lượng dân số của thế giới bị kéo tuột xuống. b. Dân số và vấn đề bệnh tật Mặc dù chưa có nhà khoa học nào khẳng định được mối liên hệ giữa vấn đề bùng nổ dân số và bệnh tật, tuy nhiên trên thực tế, tại các quốc gia đang và kém phát triển, những nước có tốc độ bùng nổ dân số cao nhất thế giới cũng là những nước mà ở đó vấn đề dịch bệnh đang trở nên rất nghiêm trọng. Có thể lấy ví dụ

10

sau để thấy được điều đó: theo thống kê năm 2000, thế giới có khoảng 40 triệu người bị nhiễm AIDS, trong đó 90% là ở các nước đang phát triển, chủ yếu là ở các quốc gia châu Phi (chiếm tới 2/3 số người mắc bệnh). 1 Bùng nổ dân số dẫn tới điều liện sống nghèo khổ, chiến tranh xung đột triền miên khiến cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân không được đảm bảo chính là nguyên nhân chính dẫn tới bệnh tật tràn lan ở châu lục này. c. Dân số và vấn đề tài nguyên thiếu hụt Trong xã hội công nghiệp hiện đại, để đảm bảo cho cuộc sống của mỗi nguời, mỗi năm phải đào lên được 25 loại khoáng sản trong lòng đất. Tài nguyên dầu lửa, nếu tiếp tục được khai thác với tốc độ như trong thập niên 90 của thế kỉ trước thì sẽ cạn kiệt đến năm 2016. Tài nguyên than trên thế giới cũng chỉ còn dùng được 1500 năm nữa, và ước tính 12 loại tài nguyên khác chỉ duy trì đựoc 50 năm nữa là cùng. Trong đó nghiêm trọng nhất là phải kể tới vấn đề thiếu nước ngọt. Vào đầu thế kỉ XXI, một số vùng Nam Á, Trung Mỹ, nhất là Bắc Phi, Đông Phi, Tây Phi đã xuất hiện tình trạng thiếu nước ngọt hoàn toàn. d. Dân số và vấn đề thiếu đất canh tác, lương thực căng thẳng Với sự tăng trưởng cùa dân số trên toàn thế giới, bình quann ruộng đất canh tác theo đầu người ngày một giảm đi. Năm 1950 bình quân ruộng đất theo đầu người trên thế giới là 8,5 mẫu, năm 1960 giảm xuống chỉ còn 7,1 mẫu, năm 1968 là 6,1 mẫu, năm 1974 còn 5,6 mẫu và tới năm 1960 chỉ là 3,9 mẫu. Ruộng đất canh tác giảm đi tất nhiên không chỉ vì lí do dân số bùng nổ mà còn do nhiều nguyên nhân khác như quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, tuy nhiên nguyên nhân dân số tăng lên vẫn là nguyên nhân chủ yếu. Ruộng đất giảm, dân số tăng nhanh làm cho vấn đề lương thực trên phạm vi toàn cầu ngày càng trở lên căng thẳng. Đầu năm 2008 vừa qua đã xảy ra cuộc khủng hoảng lương thực lớn và chưa 1

Nguyễn Trọng Chuẩn, những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỉ XXI, tr 226-227

11

bao giờ vấn đề an ninh lương thực lại được đặt ra cấp thiết như lúc này. Hiện nay đại đa số các đang phát triển tại châu Á, châu Phi và Mỹ La-tinh đã phải nhập lương thực, đó là một minh chứng rõ ràng cho hậu quả của việc bùng nổ dân số tại các nước này. e. Dân số và vấn đề ô nhiễm môi trường Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa đang diễn ra trên khắp thế giới, sự bùng nổ dân số đã khiến cho tình hình ô nhiễm môi trường ngày càng trở lên nghiêm trọng. Tại các nước đang phát triển, do sức ép của việc phát triển kinh tế, cho đến nay vẫn tiếp tục sử dụng sử dụng một cách rộng rãi các loại thuốc trừ sâu, khai thác đất quá mức…khiến cho sự phá hoại môi trường sinh thái ngày càng tăng lên. g. Dân số và vấn đề an ninh, xã hội Dân số tăng nhanh gây ra nhiều bất ổn trong xã hội, đó là nạn cướp bóc, khủng bố,…Dễ thấy khi dân số tăng cao, việc kiếm được miếng ăn sẽ ngày càng trở lên khó khăn hơn, và để đảm bảo sinh tồn cho mình người ta có thể sẵn sàng làm mọi việc, kể cả phạm tội. Nghiêm trọng hơn, xuất phát từ vấn đề dân số quá nhiều dẫn tới việc thiếu đất sống, thiếu “không gian sinh tồn” có thể dẫn tới các cuộc xung đột, chiến tranh giữa các nhóm người, gây nên những hậu quả to lớn. Có thể thấy vấn đề bùng nổ dân số đối với vấn đề nghèo đói, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khan hiếm tài nguyên đều có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp. Bản thân các vấn đề đó đã là các vấn đề mang tính toàn cầu, có ảnh hưởng tới sự tôn vong của nhân loại, chính vì vậy, không còn gí nghi ngờ nữa, vấn đề bùng nổ dân số cũng là một vấn đề có tầm ảnh hưởng sâu sắc, rộng lớn tới tương lai của nhân loại.

12

13

Nguyễn Trọng Chuẩn: Những vấn đề toàn cầu trong hai thập

niên đầu của thế kỉ XXI. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. 2.

Nguyễn Trần Quế: Những vấn đề toàn cầu hóa hiện nay.

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006. 3.

http://www.tapchicongsan.org.vn

4.

http://www.vietnamnet.vn

14

Nhóm thực hiện

1.

Phạm Ngọc Thắng I33

2.

Nguyễn Thu Hằng I33

3.

Hoàng Như Yến I33

4.

Nguyễn Văn Quý I33

5.

Quyền Tú Anh I33

6.

Lattaphong Phanmachan K33

7.

Pakitkeo Senhom K33

15

16

Bùng Nổ Dân Số Và Vấn Đề Toàn Cầu

Tiểu luận Bùng nổ dân số và vấn đề toàn cầu

1

MỞ ĐẦU Ngày nay, khái niệm “con quái vật dân số” hay “quả bom dân số” đã trở lên không còn xa lạ gì với mỗi chúng ta. Gọi như vậy phần nào đã cho chúng ta một cái nhìn khái quát nhất về tính nguy hại và cấp thiết, cũng như những áp lực mà vấn đề dân số gây ra cho chúng ta. Trong vòng bốn thập niên trở lại đây, nhân loại đã có cái nhìn khác về vấn đề dân số, đã không còn quan niệm “trời sinh voi trời sinh cỏ” nữa mà thay vào đó, con người đã có cái nhìn nghiêm túc hơn trước thực trạng diễn biễn ngày càng phức tạp của vấn đề dân số. Trong bài tiểu luận này, chúng tôi chỉ muốn đề cập tới nguyên nhân và thực trạng của vấn đề bùng nổ dân số- vấn đề đang làm đau đầu lãnh đạo nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam- để từ đó làm sang tỏ vấn đề bùng nổ dân số hiện đã vượt ra ngoài biên giới của một quốc gia, một khu vực và đã trở thành một vấn đề toàn cầu. Bài tiểu luận của nhóm chúng tôi được chia làm 3 phần I. Khái niệm và thực trạng của vấn đề bùng nổ dân số II. Nguyên nhân bùng nổ dân số III. Tại sao vấn đề dân số lại được coi là vấn đề toàn cầu

2

I. Khái niệm và thực trạng vấn đề bùng nổ dân số trên thế giới 1. Khái niệm – Dân số là tập hợp những người sinh sống trong cùng một quốc gia, khu vực, vùng địa lí kinh tế hoặc một đơn vị hành chính. – Bùng nổ dân số là sự gia tăng dân số quá nhanh trong một thời gian ngắn,gây ảnh hưởng tiêu cực đến mọi mặt của đời sống xã hội1. Như vậy bản chất của bùng nổ dân số chính là sự tăng lên nhanh chóng một cách đột biến của số lượng người sinh sống trong phạm vi của một quốc gia, khu vực, vùng địa lí, hay nói rộng ra đó là sự gia tăng trên phạm vi toàn cầu. 2. Thực trạng vấn đề bùng nổ dân số Chúng tôi sẽ xem xét vấn đề bùng nổ dân số trên hai cấp độ: cấp độ quốc tế và cấp độ quốc gia. a. Cấp độ quốc tế Dân số phát triển với tốc độ chóng mặt. Xét trong toàn bộ tiến trình lịch sử xã hội cho đến nay,tỉ lệ phát triển dân số trên phạm vi toàn thế giới ngày càng cao. Vào những năm công nguyên,dân số thế giới chỉ vào khoảng 250 triệu người .Cách đó 1.600 năm, dân số thế giới tăng trưởng rất chậm, đến năm 1650 dân số thế giới chỉ tăng gấp đôi con số trên. Năm 1825,dân số thế giới lên đến 1 tỉ người.

1

Từ điển bách khoa toàn thư

3

Năm 1925 dân số thế giới là 2 tỉ người. 50 năm tiếp theo dân số thề giới tăng gấp đôi,tức là vào năm 1975 đạt tới 4 tỉ người. Năm 1987,vào ngày 11 tháng 7,dân số thế giới tròn 5 tỉ người,tức là chỉ cần 12 năm để tăng thêm 1 tỉ người.1 Dân số thế giới đã vượt qua ngưỡng 6 tỉ người vào cuối thập kỷ XX, đạt 6,616 tỉ người vào năm 2007, với tỷ lệ tăng dân số hằng năm 1,2% (so với 2% của những năm thập kỷ 60 của thế kỷ XX). Chỉ trong vòng 12 năm, thế giới đã tăng thêm 1 tỉ dân (từ 1987 – 1999), là giai đoạn ngắn nhất trong lịch sử loài người để có thêm 1 tỉ dân và 1 tỉ tiếp theo sẽ đạt được sau 13 năm. Theo dự báo, dân số thế giới sẽ tăng thêm 2,6 tỉ trong vòng 45 năm tới, tức đến năm 2050 dân số thế giới sẽ đạt 9,1 tỉ người . Như vậy có thể thấy thời gian để dân số thế giới tăng thêm gấp đôi, cũng như thời gian để Trái Đất đón thêm 1 tỉ công dân mới ngày càng được rút ngắn một cách nhanh chóng. Người ta tính rằng cứ 6 tháng dân số thế giới lại tăng thêm bằng số dân của nước Pháp (50 triệu) và cứ sau 10 năm lại có một nước Trung Quốc ra đời ở những vùng nghèo nàn nhất trên Trái Đất2. Đó quả thật là những con số khủng khiếp. Tuy nhiên tốc độ tăng dân số ở các khu vực khác nhau trên thế giới là không giống nhau. Có một nghịch lí là khu vực các nước nghèo và kém phát triển nhất lại là những khu vực có tốc độ tăng dân số nhanh nhất. Theo điều tra của Cục Điều tra dân số Mỹ, tốc độ tăng dân số nhanh nhất lại là ở các khu vực nghèo khổ nhất tại châu Phi, Trung Đông và tiểu lục địa Ấn Độ, nơi trung bình một phụ nữ đẻ 7 con. Trong tương lai gần, tốc độ phát triển dân số nhanh nhất vẫn là khu vực châu Phi và Nam Á. Trong vòng nửa đầu thế kỉ XXI, dân số châu Phi sẽ tăng khoảng 2,4- 3 lần, cao hơn tốc độ tăng dân số toàn cầu khoảng 1,7-1,8 lần. Cũng

Nguyễn Trần Quế, Những vấn đề toàn cầu hóa ngày nay, tr.71 Nguyễn Trần Quế, những vấn đề toàn cầu hóa ngày nay, tr 23

4

như vậy tốc độ tăng dân số ở khu vực Nam Á cũng cao hơn tốc độ tăng dân số toàn cầu 10-15%. Chỉ tính riêng trong giai đoạn 2000 – 2005, theo thống kê của Liên hợp quốc, hằng năm dân số thế giới tăng thêm khoảng 76 triệu người, trong đó 6 nước có số dân tăng thêm chiếm 45% là Ấn Độ (số dân tăng thêm chiếm 22%), Trung Quốc (11%), Pa-ki-xtan, Ni-giê-ri-a, Mỹ, Băng-la-đét (mỗi nước 4%). Ngoài ra, 16 nước khác có số dân tăng thêm chiếm 25%, trong đó In-đô-nê-xi-a (số dân tăng hằng năm 2,7 triệu), Băng-la-đét (2,6 triệu), Bra-xin (2,5 triệu), Ê-ti-ô-pi-a (1,8 triệu), Cộng hòa Công-gô (1,5 triệu), Phi-líp-pin (1,5 triệu), Mê-hi-cô (1,4 triệu), Ai-cập (1,3 triệu), Áp-ga-ni-xtan (1,2 triệu), Việt Nam (1,1 triệu), Thổ Nhĩ Kỳ (1 triệu), U-gan-đa (0,9 triệu), I-rắc (0,7 triệu), Kê-ni-a (0,7 triệu), Cộng hòa Tan-dani-a (0,7 triệu), Cô-lôm-bi-a (0,7 triệu) và Xu-đăng (0,7 triệu). Trong khi dân số của nhiều nước, đặc biệt là ở châu Phi và châu Á tiếp tục gia tăng trong vài thập niên tới, thì ở một số nước phát triển đạt dưới mức sinh thay thế lại có xu thế suy thoái dân số trong vòng 50 năm (2000 – 2050) như CHLB Nga (số dân giảm 35 triệu), U-crai-na (23 triệu), Nhật (15 triệu), Ba-lan (7 triệu), Ru-ma-ni (5 triệu), CHLB Đức (4 triệu), Bê-la-rút và Bun-ga-ri (3 triệu)1. Như vậy, sức ép dân số đối với đa số các nước đang phát triển, trong đó có nước ta do số dân tăng thêm hằng năm còn rất lớn trước đời sống kinh tế, chính trị và xã hội, hạn chế đến khả năng cải thiện, phát triển và tiềm ẩn nguy cơ tụt hậu.Dân số tăng nhanh nằm ở khu vực những nước đang phát triển, với hơn 95% sự gia tăng dân số nằm ở khu vực này: Hiện nay, dân số thế giới đang gia tăng với tỷ lệ trung bình là 1,2%/năm. Cục điều tra dân số Mỹ dự báo, tốc độ này sẽ giảm xuống còn 0,5% năm 2050. Khi đó, Ấn Độ sẽ vượt Trung Quốc trở thành nước đông dân nhất thế giới. b. Cấp độ quốc gia

1

Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam

5

Trong tiến trình toàn cầu hóa hiện nay, có một vấn đề nan giải đó là sự tăng nhanh dân số ở khu vực các thành phố lớn. Tỷ lệ dân cư tại các thành phố, đặc biệt là các thành phố lớn ngày càng cao. Năm 1955, dân số đô thị là 872 triệu người (chiếm 32% dân số toàn cầu), năm 1975 là 1,5 tỉ người (chiếm 38%), năm 1995 là 2,6 tỉ người (chiếm 45%). Theo dự báo của Liên Hợp Quốc, tới năm 2025 số dân sống ở các đô thị sẽ chiếm 60% dân số toàn cầu. Số thành phố có trên 10 triệu dân cũng tăng lên nhanh chóng. Nếu như năm 1975 mới chỉ có 5 thành phố như vậy thì tới năm 1995 đã có 14 thành phố, theo dự đoán thì tới năm 2025 chỉ riêng châu Á sẽ có tới 20 thành phố trên 10 triệu dân.1 Khi dân số đô thị toàn cầu bùng nổ (cứ 38 năm lại tăng gấp đôi) các thành phố lớn nhất thế giới ngoại trừ Tokyo sẽ bị tuột xuống cuối danh sách vào năm 2015 và thay thế chúng là các đô thị nhỏ hơn mà ở đó đang có sự bùng nổ dân cư, cũng theo dự đoán này, Bombay và New Delhi sẽ trở thành các thành phố lớn thứ hai và thứ ba trên thế giới thay thế cho Mexico city và New York hiện nay. II. Nguyên nhân bùng nổ dân số Sự chênh lệch lớn về tỷ lệ sinh tử: trong giai đoạnđầu phát triển lịch sử phát triển của nhân loại, tỷ lệ sinh tương đối cao do nhu cầu duy trì nòi giống và nhu cầu lực lượng sản xuất phục vụ phát triển xã hội, trong khi đó tỉ lệ tử cũng tương đối cao do điều kiện sống hạn chế, thiên tai, dịch bệnh nhiều… Do đó, trong giai đoạn này tỷ lệ sinh và tử tương đối cân bằng. Ngược lại, trong giai đoạn “bùng nổ dân số” tỷ lệ sinh vẫn tiếp tục được duy trì trong khi đó tỷ lệ tử có xu hướng giảm do điều kiện sống được nâng cao, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, các nhu cầu cơ bản của con người được chú trọng đặc biệt là trong công tác vệ sinh và y tế dẫn tới tỉ lệ tử giảm xuống. Thêm vào đó, tuổi thọ của con người được nâng cao dần, năm 1975 tuổi trung bình của dân cư thế giới là 21,9 tuổi, tới năm 2000 là 26,6 tuổi. Quá trình toàn cầu hóa đã mang lại cho các

1

Nguyễn Trọng Chuẩn, Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỉ XXI, tr.195

6

quốc gia kém phát triển khả năng tiếp cận với những tiến bộ khoa học kĩ thuật. Những căn bệnh trước kia được coi là nan y đã tìm ra phương pháp chữa trị, người dân đã biết sử dụng rộng rãi các loại thuốc văc-xin, thuốc kháng sinh.. Mặt khác khoa học kĩ thuật cũng góp phần làm giảm tỉ lệ tử ở trẻ sơ sinh, mang lại nhiều cơ hội cho các cặp vợ chồng hiếm muộn… Chính những yếu tố trên đã làm nảy sinh tình trạng mất cân bằng giữa sinh và tử, dẫn đến tình trạng tăng dân số một cách chóng mặt. Nhu cầu về lực lượng sản xuất: ở các quốc gia kém phát triển, những nơi mà khoa học kỹ thuật chưa mấy phát triển và việc áp dụng khoa học và sản xuất còn rất hạn chế, lực lượng sản xuất vẫn chỉ mới ở trình độ cơ khí thủ công, sử dụng lao động cơ bắp, lao động chân tay là chủ yếu, cộng với những nguồn năng lượng có sẵn trong tự nhiên để sản xuât, trong xã hội như vậy thì dân số càng tăng, sức lao động càng nhiều, càng đẩy mạnh sức sản xuất xã hội. Do đó mà dân số thế giới của chúng ta không ngừng tăng lên một cách nhanh chóng, để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của từng quốc gia . Quan niệm lạc hậu: ở một số nước đặc biệt là các nước phương đông vẫn còn một số quan niệm lạc hậu: sinh nhiều con, tư tưởng trọng nam khinh nữ, muôn sinh con trai… Điều này có thể thấy rất rõ ở Việt Nam, tại các vùng dân tộc thiểu số hoặc các vùng nông thôn thường có tư tưởng sinh càng nhiều càng tốt và nhất thiết phải có con trai, do đó mà ở các vùng này gia đình nào cũng có 3 con trở lên. Ở các nước này vai trò và địa vị của người phụ nữ vẫn còn rất thấp, phụ nữ nhiều nơi vẫn chưa được giải phóng hoàn toàn. Ngược lại có thể thấy ở các quốc gia phát triển phương Tây, nơi mà người phụ nữ khá bình đẳng với nam giới và tham gia ngày càng nhiều vào lực lượng lao động của xã hội thì tỉ lệ sinh rất thấp, chính quyền nhiều nước còn phải đề ra các chính sách khuyến khích tăng tỉ lệ sinh. Ở một số nước nghèo và các nước đang phát triển thì vấn đề tiếp cận, và nhận thức về dân số còn rất hạn chế, đặc biệt là châu phi và một số nước ở châu Á, kinh tế nghèo đói, lương thực không đủ ăn chua nói đến vấn đề tiếp cận đến vấn đề giáo dục dân số và kế hoạch hóa gia đình. Họ thiếu những kiến thức và phương tiện cơ 7

bản về phòng tránh thai. Thậm chí nhiều khi chính các nhà lãnh đạo cũng có nhận thức chưa đầy đử về vấn đề này, ví dụ cách đây 8 năm thị trưởng thành phố Mannila đã ra lệnh cấm các trung tâm y tế cung cấp các biện pháp ngừa thai hiện đại như bao cao su, thuốc tránh thai và triệt sản nhằm mục đích bảo vệ các giá trị cuộc sống??

III. Tại sao “Bùng nổ dân số” lại là vấn đề toàn cầu Cũng như mọi vấn đề toàn cầu khác, vấn đề bùng nổ dân số cũng sẽ được chúng tôi nhìn nhận dưới 3 góc độ là :phạm vi tác động, hậu quả tác động và việc đòi hỏi sự chung sức của toàn nhân loại. 1. Phạm vi tác động của vấn đề: Vấn đề bùng nổ dân số có thể được nhìn nhận từ hai góc độ. Trên phạm trù quốc tế, có một thực tế là hiện nay vấn đề bùng nổ dân số chỉ diễn ra chủ yếu ở các nước đang phát triển và chậm phát triển, có thể thấy 60% dân số tập trung tại các nước châu Á và châu Phi, các khu vực còn lại như châu Âu và châu Mỹ dân số chỉ chiếm 40% dân số thế giới. Điều đáng lo ngại hơn là các khu vực kém phát triển này tốc độ tăng dân số luôn ở mức cao hơn rất nhiều so với các nước phát triển. Trong giai đoạn 2000 – 2005, theo thống kê của Liên hợp quốc, hằng năm dân số thế giới tăng thêm khoảng 76 triệu người, trong đó 6 nước có số dân tăng thêm chiếm 45% và 16 nước khác có số dân tăng thêm chiếm 25% thì ngoài 4 nước là Mỹ, Côlômbia, Mêhicô và Braxin ra thì còn lại đều là các quốc gia châu Á và châu Phi, và ngoài trừ Mỹ, Ấn Độ, Braxin, Trung Quốc ra thì các nước còn lại đều là các nước đang và kém phát triển. Trong khi đó thì ở một số nước phát triển như Nga, Nhật hay CHLB Đức đạt dưới mức sinh thay thế lại có xu thế suy thoái dân số trong vòng 50 năm (2000 – 2050). Như vậy nhìn vào bề mặt của vấn đề có thể nhiều người sẽ nghĩ vấn đề bùng nổ dân số chỉ là vấn đề của các nước đang phát 8

triển, và quả thật những hậu quả mà vấn đề bùng nổ dân số mang lại cho các nước này là không phải bàn cãi. Nhưng trong thời đại ngày nay không một vấn đề nào có thể tách ra riêng lẻ mà nó luôn có liên hệ chặt chẽ với các vấn đề khác. Vân đề bùng nổ dân số cũng vậy. Có thể có người sẽ suy nghĩ rằng Việt Nam sinh nhiều thì ảnh hưởng gì tới Mỹ? Đúng là không ảnh hưởng nhiều thật nếu chỉ có Việt Nam nhưng trên thực tế, ngoài Việt Nam ra còn có rất nhiều các nước thế giới thứ 3 khác cũng đang trong tình trạng như vậy,điều đó sẽ mang lại những ảnh hưởng không nhỏ tới các quốc gia khác, đặc biệt là các nước phát triển. Một điều tất yếu là khi dân số trong nước quá đông thì người ta sẽ phải tìm đường sang các nước khác, chủ yếu là các nước phát triển. Điều mà chúng tôi muốn nói tới là vấn đề người nhập cư và di dân. Mặc dù trong chiến tranh thế giới II đã từng xuất hiện một làn sóng di cư ồ ạt từ các nước, các khu vực có chiến sự sang nước Mỹ, nguồn nhập cư này đã góp phần không nhỏ vào thành công của nước Mỹ sau này, tuy nhiên vấn đề hiện nay là mặc dù nhiều nước đã thắt chặt chính sách người nhập cư nhưng số lượng người nhập cư vẫn không giảm, chủ yếu là qua con đường nhập cư bất hợp pháp. Nhập cư bất hợp pháp sẽ dẫn tới những hậu quả không nhỏ cho các nước phát triển cả về an ninh và xã hội. Đó là tình trạng tội phạm gia tăng, xã hội bất ổn, xung đột giữa các nhóm sắc tộc. Ngoài ra xét trên phạm trù quốc gia, trong từng nước đều đang phải đối mặt với tình trạng bùng nổ dân số ở khu vực thành thị. Và trong những thành phố có tốc độ tăng dân số nhanh nhất thì có cả những thành phố rất phát triển như Tokyo hay New york. Do đó có thể thấy ngay cả trong các quốc gia phát triển nhất vẫn phải đối mặt với vấn đề bùng nổ dân số trong phạm vi cục bộ. 2. Hậu quả tác động của Bùng nổ dân số Có thể khẳng định vấn đề này có ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn vong của nhân loại. Có thể nhiều người sẽ cho rằng việc có nhiều người thì sao có thể khiến cho nhân loại diệt vong được, bởi nếu nhìn vào giới tự nhiên thì có thể thấy những

9

loài động vật bị tuyệt chủng hoặc đe dọa tuyệt chủng đều là những loài có số lượng ít ỏi. Phải chăng nếu số lượng người trên Trái Đất càng nhiều thì càng đảm bảo chắc chắn hơn cho sự tồn tại của nhân loại chứ? Tuy nhiên thực tế không phải như vậy, các nhà khoa học đã tính toán rằng các tài nguyên trên Trái Đất chỉ có thể nuôi sống tối đa được khoảng 11 tỉ người mà thôi. Nếu dân số không được kiểm soát mà vẫn tiếp tục tăng trưởng một cách vô hạn như hiện nay thì viễn cảnh về một ngày tận thế sẽ không còn là quá xa vời, và nguyên nhân của điều đó chính là nằm ở chúng ta. Nếu để ý có thể thấy rất nhiều vấn đề toàn cầu khác chính là xuất phát từ vấn đề bùng nổ dân sô. a. Dân số và vấn đề nghèo đói, lạc hậu Ở phương Tây, có tác giả cho rằng: nếu dân số tăng lên 1% thì thu nhập quốc dân tăng khoảng 4%. Ở nhiều nước kém phát triển thuộc châu Phi, tỉ lệ tăng dân số hàng năm rất cao lên đến 3%, nếu muốn đảm bảo nhu cầu cho số dân mới tăng đó thì thu nhập quốc dân bình quân mỗi năm phải tăng khoảng 13%, điều đó là vô cùng khó khăn ngay cả với một quốc gia phát triển chứ đừng nói là một quốc gia kém phát triển. Trong phạm vi một quốc gia, việc bùng nổ dân số sẽ khiến cho mức sống của người dân trong nước bị hạ xuống,mức sống của người dân giảm dẫn tới các dịch vụ chăm sóc tối thiểu không được đáp ứng, dịch bệnh gia tăng. Trên phạm vi quốc tế, bùng nổ dân số sẽ dẫn tới sự chênh lệch trong phân phối của cải giữa các khu vực, khiến cho những nước giàu vẫn cứ giàu, những nước nghèo vẫn cứ nghèo, mặt bằng chất lượng dân số của thế giới bị kéo tuột xuống. b. Dân số và vấn đề bệnh tật Mặc dù chưa có nhà khoa học nào khẳng định được mối liên hệ giữa vấn đề bùng nổ dân số và bệnh tật, tuy nhiên trên thực tế, tại các quốc gia đang và kém phát triển, những nước có tốc độ bùng nổ dân số cao nhất thế giới cũng là những nước mà ở đó vấn đề dịch bệnh đang trở nên rất nghiêm trọng. Có thể lấy ví dụ

10

sau để thấy được điều đó: theo thống kê năm 2000, thế giới có khoảng 40 triệu người bị nhiễm AIDS, trong đó 90% là ở các nước đang phát triển, chủ yếu là ở các quốc gia châu Phi (chiếm tới 2/3 số người mắc bệnh). 1 Bùng nổ dân số dẫn tới điều liện sống nghèo khổ, chiến tranh xung đột triền miên khiến cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân không được đảm bảo chính là nguyên nhân chính dẫn tới bệnh tật tràn lan ở châu lục này. c. Dân số và vấn đề tài nguyên thiếu hụt Trong xã hội công nghiệp hiện đại, để đảm bảo cho cuộc sống của mỗi nguời, mỗi năm phải đào lên được 25 loại khoáng sản trong lòng đất. Tài nguyên dầu lửa, nếu tiếp tục được khai thác với tốc độ như trong thập niên 90 của thế kỉ trước thì sẽ cạn kiệt đến năm 2016. Tài nguyên than trên thế giới cũng chỉ còn dùng được 1500 năm nữa, và ước tính 12 loại tài nguyên khác chỉ duy trì đựoc 50 năm nữa là cùng. Trong đó nghiêm trọng nhất là phải kể tới vấn đề thiếu nước ngọt. Vào đầu thế kỉ XXI, một số vùng Nam Á, Trung Mỹ, nhất là Bắc Phi, Đông Phi, Tây Phi đã xuất hiện tình trạng thiếu nước ngọt hoàn toàn. d. Dân số và vấn đề thiếu đất canh tác, lương thực căng thẳng Với sự tăng trưởng cùa dân số trên toàn thế giới, bình quann ruộng đất canh tác theo đầu người ngày một giảm đi. Năm 1950 bình quân ruộng đất theo đầu người trên thế giới là 8,5 mẫu, năm 1960 giảm xuống chỉ còn 7,1 mẫu, năm 1968 là 6,1 mẫu, năm 1974 còn 5,6 mẫu và tới năm 1960 chỉ là 3,9 mẫu. Ruộng đất canh tác giảm đi tất nhiên không chỉ vì lí do dân số bùng nổ mà còn do nhiều nguyên nhân khác như quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, tuy nhiên nguyên nhân dân số tăng lên vẫn là nguyên nhân chủ yếu. Ruộng đất giảm, dân số tăng nhanh làm cho vấn đề lương thực trên phạm vi toàn cầu ngày càng trở lên căng thẳng. Đầu năm 2008 vừa qua đã xảy ra cuộc khủng hoảng lương thực lớn và chưa 1

Nguyễn Trọng Chuẩn, những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỉ XXI, tr 226-227

11

bao giờ vấn đề an ninh lương thực lại được đặt ra cấp thiết như lúc này. Hiện nay đại đa số các đang phát triển tại châu Á, châu Phi và Mỹ La-tinh đã phải nhập lương thực, đó là một minh chứng rõ ràng cho hậu quả của việc bùng nổ dân số tại các nước này. e. Dân số và vấn đề ô nhiễm môi trường Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa đang diễn ra trên khắp thế giới, sự bùng nổ dân số đã khiến cho tình hình ô nhiễm môi trường ngày càng trở lên nghiêm trọng. Tại các nước đang phát triển, do sức ép của việc phát triển kinh tế, cho đến nay vẫn tiếp tục sử dụng sử dụng một cách rộng rãi các loại thuốc trừ sâu, khai thác đất quá mức…khiến cho sự phá hoại môi trường sinh thái ngày càng tăng lên. g. Dân số và vấn đề an ninh, xã hội Dân số tăng nhanh gây ra nhiều bất ổn trong xã hội, đó là nạn cướp bóc, khủng bố,…Dễ thấy khi dân số tăng cao, việc kiếm được miếng ăn sẽ ngày càng trở lên khó khăn hơn, và để đảm bảo sinh tồn cho mình người ta có thể sẵn sàng làm mọi việc, kể cả phạm tội. Nghiêm trọng hơn, xuất phát từ vấn đề dân số quá nhiều dẫn tới việc thiếu đất sống, thiếu “không gian sinh tồn” có thể dẫn tới các cuộc xung đột, chiến tranh giữa các nhóm người, gây nên những hậu quả to lớn. Có thể thấy vấn đề bùng nổ dân số đối với vấn đề nghèo đói, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khan hiếm tài nguyên đều có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp. Bản thân các vấn đề đó đã là các vấn đề mang tính toàn cầu, có ảnh hưởng tới sự tôn vong của nhân loại, chính vì vậy, không còn gí nghi ngờ nữa, vấn đề bùng nổ dân số cũng là một vấn đề có tầm ảnh hưởng sâu sắc, rộng lớn tới tương lai của nhân loại.

12

13

Nguyễn Trọng Chuẩn: Những vấn đề toàn cầu trong hai thập

niên đầu của thế kỉ XXI. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. 2.

Nguyễn Trần Quế: Những vấn đề toàn cầu hóa hiện nay.

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006. 3.

http://www.tapchicongsan.org.vn

4.

http://www.vietnamnet.vn

14

Nhóm thực hiện

1.

Phạm Ngọc Thắng I33

2.

Nguyễn Thu Hằng I33

3.

Hoàng Như Yến I33

4.

Nguyễn Văn Quý I33

5.

Quyền Tú Anh I33

6.

Lattaphong Phanmachan K33

7.

Pakitkeo Senhom K33

15

16

Bùng Nổ Dân Số Tiếng Anh Và Các Chủ Đề Liên Quan

Bùng nổ dân số tiếng anh là gì?

Bùng nổ dân số tiếng Anh là population explosion hoặc population boom. Đây là 2 từ tiếng Anh chỉ sự gia tăng dân số quá nhanh trong một thời gian ngắn, gây ảnh hưởng tiêu cực đến mọi mặt của đời sống xã hội.

Như vậy bản chất của bùng nổ dân số chính là sự tăng lên nhanh chóng một cách đột biến của số lượng người sinh sống trong phạm vi của một quốc gia, khu vực, vùng địa lí, hay nói rộng ra đó là sự gia tăng trên phạm vi toàn cầu.

Từ vựng tiếng Anh về dân số

Human beings/ Human species/ Human race: Loài người

Famine / hunger/ starvation: Nạn đói

Burgeoning population: Dân số không ngừng gia tăng

Overpopulation: Dân số quá đông

Persistent malnutrition and starvation: suy dinh dưỡng và nghèo đói triền miên

projected/ estimated global population: Ước tính dân số toàn cầu

Birth rates: tỉ lệ sinh

Fatality rate/ mortality rate/ death rate: tỉ lệ tử

Abortion: sự phá thai, sự sẩy thai

Abortion rate: tỷ lệ nạo phá thai

Birthing plan: kế hoạch sinh sản

Contraceptives: tránh thai

Birth control: phương pháp hạn chế sinh đẻ, biện pháp tránh thai

Growing/ increasing hunger/ famine/ starvation: nạn đói gia tăng

Life-threatening cycle: đe dọa vòng đời sống

Population policy: Chính sách dân số

To be fitted with an intra-uterine device: đặt/ tháo vòng tránh thai

Exploding population / booming population: bùng nổ dân số

The Minister in charge of population and family planning: Bộ trưởng chịu trách nhiệm về dân số và kế hoạch hóa gia đình

To curb/ check/ control/ rein population boom/ explosion: kiểm soát sự bùng nổ dân số

Migration: di dân

Nguyên nhân bùng nổ dân số bằng tiếng anh

The cause of the population explosion includes many factors and reasons. These includes:

Nguyên nhân của sự bùng nổ dân số bao gồm nhiều yếu tố và lý do. Chúng bao gồm:

Increase in the birth rate – Due to lack of control on delivery and unawareness of people the birth rate is increasing rapidly. In addition, the gap between death and birth has gone way wider than what we can think of. Furthermore, the birth rate has increased many folds in comparison to the death rate.

Tỷ lệ sinh tăng – Do không kiểm soát được việc sinh đẻ và không có ý thức của người dân nên tỷ lệ sinh đang tăng nhanh. Ngoài ra, khoảng cách giữa cái chết và cái sinh đã rộng hơn những gì chúng ta có thể nghĩ đến. Hơn nữa, tỷ lệ sinh đã tăng gấp nhiều lần so với tỷ lệ tử.

A decrease in infant mortality rate – Mortality rate refers to the number of death of infants below the age of 6 months. Due to science and technology, we are able to minimize this rate and now only a few cases of death are known per thousand death.

Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh giảm – Tỷ lệ tử vong là số trẻ sơ sinh dưới 6 tháng tuổi tử vong. Nhờ có khoa học kỹ thuật, chúng ta có thể giảm thiểu tỷ lệ này và hiện nay trên một nghìn ca tử vong chỉ có vài trường hợp được biết đến.

The life expectancy growth- Earlier the life expectancy of people was around 55-60 years. But due to better and improved medical facilities, we are now able to increase the life expectancy of people. Now the average age of a person increased to 70-75 years. Besides, these better living conditions, good quality food, better nutrition, and better sanitation facilities also helped in increasing life expectancy.

Tuổi thọ tăng – Trước đó tuổi thọ của con người vào khoảng 55-60 tuổi. Nhưng do cơ sở vật chất y tế ngày càng được cải thiện, nên hiện nay chúng ta đã có thể nâng cao tuổi thọ của con người. Bây giờ tuổi trung bình của một người tăng lên 70-75 tuổi. Bên cạnh đó, điều kiện sống tốt hơn, thực phẩm chất lượng tốt, dinh dưỡng tốt hơn và các cơ sở vệ sinh tốt hơn cũng giúp tăng tuổi thọ.

High level of illiteracy- The literacy level of women is one of the biggest problems of family planning. For example, in India, people pay very little importance to women’s education and marry them at an early age. That’s why they do not have knowledge about birth control methods and the use of contraceptives.

Mức độ mù chữ cao – Mức độ biết chữ của phụ nữ là một trong những vấn đề lớn nhất của kế hoạch hóa gia đình. Ví dụ ở Ấn Độ, mọi người rất ít coi trọng việc học hành của phụ nữ và kết hôn với họ khi còn nhỏ. Đó là lý do tại sao họ không có kiến ​​thức về các phương pháp ngừa thai và sử dụng các biện pháp tránh thai.

The population of the world is ever growing. Some people believe that this increase has created an unsustainable situation and that it will lead to a global crisis. Other people believe that only through an increasing population can the world’s economy and society develop.

Dân số thế giới ngày càng tăng. Một số người tin rằng sự gia tăng này đã tạo ra một tình trạng không bền vững và nó sẽ dẫn đến một cuộc khủng hoảng toàn cầu. Những người khác tin rằng chỉ khi dân số ngày càng tăng thì nền kinh tế và xã hội của thế giới mới có thể phát triển.

This population increase is not constant around the world; population is undergoing significant growth especially in less developed countries, and the continent of Africa is predicted to undergo the highest increase. Many people living in these less developed countries frequently face shortages, such as water, food, heating, cooking fuel and medicines, and people have to live in substandard living conditions by western standards. With more inhabitants, these difficulties will become exacerbated and helping these countries might also create strain on the resources and economies of other countries.

Sự gia tăng dân số này không liên tục trên khắp thế giới; dân số đang có sự gia tăng đáng kể, đặc biệt là ở các nước kém phát triển, và lục địa Châu Phi được dự đoán sẽ có mức tăng cao nhất. Nhiều người sống ở các nước kém phát triển này thường xuyên phải đối mặt với tình trạng thiếu nước, thực phẩm, sưởi ấm, nhiên liệu nấu ăn và thuốc men, và người dân phải sống trong điều kiện sống không đạt tiêu chuẩn theo tiêu chuẩn phương Tây. Với nhiều dân cư hơn, những khó khăn này sẽ trở nên trầm trọng hơn và việc giúp đỡ các quốc gia này cũng có thể tạo ra sức ép đối với các nguồn lực và nền kinh tế của các quốc gia khác.

On the other hand, many countries are unable to reach their economic potential due to a lack of skilled work forces. For these countries a growing population can mean a stronger economy and, due to that, a better standard of living. Growing populations can also lead to growing demand for goods, allowing economies to expand. The problem is, however, that countries that are in need of labour forces and increasing demand are already the more developed countries and they meet some of these needs by immigration and exporting goods.

Mặt khác, nhiều quốc gia không thể phát huy được tiềm lực kinh tế do thiếu lực lượng lao động có tay nghề cao. Đối với những quốc gia này, dân số ngày càng tăng có thể có nghĩa là một nền kinh tế mạnh hơn và do đó, mức sống tốt hơn. Dân số ngày càng tăng cũng có thể dẫn đến nhu cầu hàng hóa ngày càng tăng, cho phép các nền kinh tế mở rộng. Tuy nhiên, vấn đề là những quốc gia đang cần lực lượng lao động và nhu cầu ngày càng tăng đã là những quốc gia phát triển hơn và họ đáp ứng một số nhu cầu này bằng cách nhập cư và xuất khẩu hàng hóa.

In conclusion, while certain areas of the world are in need of larger work forces to develop their economies, the continuously increasing population could potentially lead to crisis within countries that already struggle to provide for their inhabitants.

Tóm lại, trong khi một số khu vực trên thế giới đang cần lực lượng lao động lớn hơn để phát triển kinh tế, thì dân số liên tục tăng có thể dẫn đến khủng hoảng trong các quốc gia vốn đang phải vật lộn để cung cấp cho người dân của họ.

Dân Số Nhật Bản: Nguyên Nhân Nào Dẫn Đến Sụt Giảm Dân Số?

Bài: Quỳnh Trịnh Ảnh: PIXTA

Như bài trước đã đề cập, Nhật Bản đang phải đối mặt với sự “khủng hoảng dân số” khi dân số hàng năm sụt giảm đáng kể và tỷ lệ dân số già lại ngày càng tăng lên. Vậy đâu chính là nguyên nhân dẫn đến sự “khủng hoảng” này?

Tỉ lệ người không kết hôn và kết hôn muộn tăng

Theo một kết quả báo cáo của phủ Nội các Nhật Bản, tỉ lệ người trên 30 tuổi không kết hôn ở Nhật năm 1985 và năm 2015 là:

Trong suốt 30 năm, tỉ lệ người trên 30 tuổi không kết hôn ở Nhật Bản đã tăng lên rất nhiều. Đi đôi với việc tỉ lệ người không kết hôn tăng là việc kết hôn muộn. Theo thống kê của Bộ Sức khỏe, Lao động và Phúc lợi Nhật Bản, năm 2015 độ tuổi kết hôn trung bình đã tăng lên, nữ giới là 29,4 tuổi và nam giới là 31,1 tuổi.

Nếu tình trạng này cứ tiếp tục gia tăng thì nó sẽ ảnh hưởng đến tỉ lệ sinh. Khi tỉ lệ sinh giảm đồng nghĩa với số người lao động trong tương lai cũng sẽ giảm. Điều này gây không ít ảnh hưởng đến việc xã hội và kinh tế Nhật Bản vận hành trong tương lai.

Sự thay đổi giá trị quan về hôn nhân và con cái

Trước đây, việc dựng vợ gả chồng vốn là một lẽ thường. Nhưng có lẽ do sự phát triển xã hội và thay đổi của thời cuộc mà người ta dần dần coi trọng sự tự do của bản thân. Có rất nhiều người cảm thấy hài lòng khi sống một mình nên cũng không quá để tâm đến việc kết hôn. Thậm chí còn có nhiều người nói rằng dù kết hôn thì họ cũng không muốn có con. Không chỉ vì lý do kinh tế, mà chỉ đơn giản là họ không muốn sinh con để có thể sống tự do mà không ràng buộc.

Thân phận của người phụ nữ được nâng cao

Nếu trước kia, công việc của người phụ nữ chỉ xoay quanh gian bếp, đến tuổi thì lấy chồng rồi sinh con, chăm sóc cho con, cho chồng thì hiện nay đã không còn nhiều cảnh như vậy nữa. Người phụ nữ hiện đại đã bước ra xã hội, được học, được đi làm và độc lập về mọi thứ. Khi đi làm, người ta sẽ khó cân bằng giữa công việc và gia đình. Chính vì vậy, mà nhiều người lựa chọn ưu tiên công việc hơn, quyết định không kết hôn hoặc kết hôn muộn.

Xã hội vẫn không đáp ứng tốt điều kiện để nuôi con

Dù nói rằng tỉ lệ sinh giảm là do sự tiến bộ của xã hội làm ảnh hưởng đến cách nhìn của người Nhật về việc kết hôn và sinh con, nhưng vẫn không thể bỏ qua việc xã hội không đáp ứng tốt điều kiện để nuôi con.

Ví dụ, việc chăm sóc con cái luôn được xem là công việc của người phụ nữ, còn người đàn ông lo những vấn đề ngoài xã hội. Suy nghĩ này đã quá “cổ lỗ sĩ”. Hiện nay chăm sóc con cái không chỉ là trách nhiệm của một mình người vợ, mà là trách nhiệm chung của cả hai vợ chồng. Nhưng ở Nhật, người phụ nữ vẫn mang nhiều trách nhiệm trong việc chăm sóc con cái, dù có một số gia đình người chồng cũng giúp đỡ vợ nhưng cũng chỉ là số ít.

Hơn nữa, xu hướng gia đình ở Nhật bây giờ là “Gia đình hạt nhân”, tức là chỉ có cha mẹ và con cái ở chung với nhau, nếu có con thì người phụ nữ phải bỏ công việc hiện tại để chăm sóc cho con vì họ không thể nhờ ông bà trông hộ. Thế nên nhiều phụ nữ Nhật Bản không muốn có con.

Gánh nặng tài chính khi nuôi con

Người ta nói rằng, để nuôi một đứa trẻ ở Nhật từ khi sinh ra đến lúc tốt nghiệp trường đại học công lập sẽ tốn hơn 20 triệu yên (khoảng 4 tỉ đồng). Hiện tại, dù chính phủ cũng có nhiều khoản trợ cấp sau khi sinh và trợ cấp cho trẻ em dưới 18 tuổi, nhưng số tiền để nuôi một đứa trẻ vẫn quá lớn. Đó sẽ là gánh nặng đối với một số gia đình, nên nhiều người quyết định không sinh con.

Tuổi thọ tăng do sự phát triển của y tế

Cùng với sự phát triển của xã hội thì y tế cũng phát triển. Những căn bệnh trước đây không thể chữa thì hiện tại đã có thuốc để chữa trị và vắc-xin phòng chống. Y tế phát triển giúp con người sống khỏe mạnh hơn, tuổi thọ cũng tăng lên. Tính đến năm 2018, người Nhật có tuổi thọ trung bình ở nữ giới là 87,32 tuổi và nam giới là 81,25 tuổi. Tuổi thọ trung bình ở Nhật Bản tăng qua từng năm và hiện đang đứng thứ 3 thế giới. Tuổi thọ trung bình cao chứng tỏ cơ sở y tế ở Nhật Bản rất phát triển, tuy nhiên tuổi thọ trung bình tăng trong khi tỷ lệ sinh lại giảm thì sẽ gây ra tình trạng già hóa dân số.

Đối mặt với tình hình sụt giảm dân số hiện nay, chính phủ Nhật Bản đã đưa ra nhiều biện pháp để giải quyết, nhưng dường như vẫn chưa được triệt để. Vì vậy, Nhật Bản vẫn đang nghiên cứu thêm những biện pháp khác.

(còn tiếp) chúng tôi