Top 10 # Xem Nhiều Nhất Phương Pháp Lai Giống Cây Trồng Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Cuocthitainang2010.com

Đề Cương Môn Chọn Tạo Giống Cây Trồng

KHOA: NÔNG HỌC

BỘ MÔN: GIỐNG – DI TRUYỀN ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT HỌC PHẦN

1. Tên học phần: Chọn tạo giống cây trồng

– Mã số học phần: CSS 321

– Số tín chỉ: 3

– Tính chất của học phần: Bắt buộc

– Học phần thay thế, tương đương: Không

– Ngành (chuyên ngành) đào tạo: Khoa học cây trồng, Công nghệ Rau Hoa quả và cảnh quan, Công nghệ sinh học, Sư phạm kỹ thuật.

2. Phân bổ thời gian học tập:

– Số tiết học lý thuyết trên lớp: 39 tiết

– Số tiết thí nghiệm, thực hành: 6 tiết

3. Đánh giá học phần

– Số tiết sinh viên tự học: 30 tiết

– Điểm chuyên cần: trọng số 0,2

– Điểm kiểm tra giữa kỳ: trọng số 0,3

4. Điều kiện học

– Điểm thi kết thúc học phần: trọng số 0,5

– Học phần học trước: Di truyền thực vật

5. Mục tiêu đạt được sau khi kết thúc học phần:

– Học phần song hành: Sinh lý thực vật

5.1. Kiến thức:

Sinh viên nắm được nguyên tắc và các phương pháp thu thập vật liệu khởi đầu, nhập nội giống cây trồng. Nắm được các nguyên tắc và phương pháp tạo giống như: Các phương pháp và kỹ thuật lai, tạo giống đa bội thể và giống đột biến, giống chuyển nạp gen; các phương pháp chọn lọc giống cây trồng, khảo nghiệm giống, đánh giá và sản xuất giống; các phương pháp lấy mẫu và kiểm tra đánh giá chất lượng giống.

5.2. Kỹ năng:

7. Tài liệu học tập :

1. Nguyễn Đức Lương, Phan Thanh Trúc, Lương Văn Hinh, Trần Văn Điền – Giáo trình chọn tạo giống cây trồng, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, 1999.

1. chúng tôi Luân Thị Đep, TS. Trần Văn Điền, Ths. Trần Đình Hà, TS. Lưu Thị Xuyến – Giáo trình Di truyền học. Nxb Nông Nghiệp Hà Nội, 2010

2. Hợp phần Giống cây trồng – 575 giống cây trồng mới, Nxb Nông Nghiệp Hà Nội, 2005

9. Cán bộ giảng dạy:

3. chúng tôi Vũ Đình Hòa, chúng tôi Nguyễn Văn Hoan, TS. Vũ Văn Liết – Giáo trình Giống cây trồng. Nxb Nông Nghiệp Hà Nội, 2005 (Đại học Nông Nghiệp Hà Nội)

4. chúng tôi Trần Duy Quý – Các phương pháp mới trong chọn tạo giống cây trồng. Nxb Nông Nghiệp Hà Nội, 1999.

5. Chu Thị Thơm, Phan Thị Lài, Nguyễn Văn Tó – Phương pháp chọn giống cây trồng. Nxb Lao động, 2006.

</

Phương Pháp Lai Tạo Gà Giống

Trong chọn giống, điều quan trọng là phải có gà mái tốt, để làm mái gốc, mái nền. Mái tốt là mái có thể đẻ ra lượng trứng nhiều, trứng đạt chất lượng, ngoài ra con con có khả năng tăng trưởng cao, chống chọi bệnh tật tốt. Máy ấp trứng Ánh Dương đã có bài viết cách lựa chọn con giống đạt tiêu chuẩn, bà con có thể tham khảo để biết cách chọn gà trống, gà mái phù hợp.

Cách đơn giản nhất là thu thập và ấp nở trứng từ bầy gà của mình nhưng thách thức quan trọng nhất chính là ở đời F1 xảy ra tình trạng xuống cấp di truyền cho cận huyết con giống.

Để tránh tình trạng cận huyết, chúng tôi gợi ý cho bà con một số phương pháp như sau:

1. Phương pháp lai pha

Là cách lai đơn giản nhất, bà con đem những trống mới từ nơi khác về hằng năm và đây cũng là phương pháo được áp dụng rộng rãi nhất trong chăn nuôi. Qua mỗi mùa sinh đẻ, những con trống thuộc giống khác ở nhiều nơi khác được đưa mới vào bầy để tiến hành thụ tinh mới, ưu điểm của phương pháp sẽ tránh được hoàn toàn tình trạng cận huyết, không xảy ra tình trạng giảm năng suất. Nhưng nhược điểm là khó kiểm các tính trạng của con giống bởi quá trình lai tạo có thể tạo ra những tính trạng lặn khiến giống gà mới trở nên yếu hơn.

Cũng là một phương pháp mà bạn đựa trống mới về mỗi mùa. Chỉ khác là nguồn trống mới chỉ ở một nơi, giúp kiểm soát các tính trạng đã có ở gà tạo ra con giống mới phát triển hơn, cũng như tránh được tình trạng cận huyết.

3. Phương pháp lai bầy

Là một phương pháp lai tạo theo bầy như một đơn vị tổng thể thường được áp dụng trong các trang trại quy mô công nghiệp. Ví dụ sử dụng khoảng 20 con giống và 200 con mái, bầy sẽ tự lai tạo quyết định tạo ra giống mới và tiến hành chọn lọc con giống tốt nhất trong thế hệ tiếp theo, sau đó lại nhập số lượng con giống mới và tiếp tục lai tạo, cuối cùng tổ hợp hai con giống mới để tạo ra giống tốt hơn.

4. Phương pháp lai cuốn

Theo phương pháp này, bà con cần phân đàn gà ra thành hai nhóm. Nhóm mái tơ được ghép với trống trưởng thành và nhóm trống tơ được ghép với mái trưởng thành. Vào cuối mùa lai tạo, cả hai nhóm được thanh lọc được gom lại cho mùa sau, và gà con được nuôi lớn thành mái tơ và trống tơ cho mùa lai tạo kế tiếp. Đây là một hệ thống đơn giản và có lợi thế trong việc chỉ duy trì hai nhóm gà.

5. Phương pháp lai xoay

Là phương pháp mà ba bầy, cụ thể gà mái được chia thành 3 bầy mà mỗi bầy được đặt tên: chẳng hạn như “1”, “2” và “3. Trong mùa đầu tiên, trống mới 1 sẽ lai tạo với duy nhất một bầy 1, tương tự cho trống mới 2 và 3. Ở mùa thứ hai, con trống tơ 1 sẽ lai tạo với bầy 2, tương tự lai tạo chéo cho mùa 3… Cứ như vậy, sự tổ hợp chéo sẽ tạo ra 03 giống mới sau 3 mùa. Điểm thuận lợi của phương pháp lai xoay đó là không xảy ra tình trạng cận huyết cũng như không cần bổ sung giống mới trong quá trình lai tạo.

Bất kể bà con áp dụng phương pháp nào cho bầy gà của mình, thành công lâu dài của việc lai tạo phụ thuộc vào việc sở hữu bầy gà gồm nhiều cá thể khác biệt về nguồn gốc cũng như sự kiên trì trong lai tạo. Điều này có nghĩa cần lưu giữ gà ở nhiều thế hệ khác nhau và sử dụng càng nhiều trống khác nhau càng tốt trong điều kiện cho phép. Chúc bà con thành công.

Nhân Giống Cây Bằng Phương Pháp Ghép

Phương pháp ghép là sự kết hợp một bộ phận của cây này với một bộ phận của cây khác, tạo thành một tổ hợp ghép, cùng sinh trưởng và phát triển như là một cây thống nhất.

Nếu phân chia theo cách ghép thì có nhiều nhưng gộp chung lại thành hai cách: Ghép áp cành hai cây sống gần nhau và ghép rời từng bộ phận của cây này với gốc của một cây khác (cành, lá, mắt rễ…). Cách ghép rời từng bộ phận lại có hai cách: ghép cành và ghép mắt.

Thời gian liền lại của một tổ hợp ghép nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào loài cây ăn quả, các giống loài dùng trong tổ hợp và những điều kiện khí hậu của môi trường. Ở nước ta thời gian liền lại của một tổ hợp ghép là 15 – 30 ngày tuỳ mùa ghép và tuỳ giống cây. Cam, quýt, chanh ghép vào mùa xuân và mùa thu có thể mở dây buộc và cắt ngọn gốc ghép sau khi ghép 10 – 15 ngày. Nếu ghép trong mùa đông và mùa hè phải 30 ngày.

Các yếu tố quan trọng sau đây có ảnh hưởng đến khả năng ghép sống của các tổ hợp.

Tình trạng ngủ nghỉ của cành và mắt ghép; mức độ thuần thục và mô tế bào đỉnh sinh trưởng và tượng tầng.

Khả năng hoạt động của mô tế bào tượng tầng của cây gốc ghép.

Điều kiện khí hậu tối thích (sự phân chia tế bào được xúc tiến mạnh và khả năng tiếp hợp tốt giữa gốc ghép và cành ghép khi ẩm độ tương đối của không khí là 100% và nhiệt độ từ 7 – 32 0

Cây ghép hoàn toàn có thể giữ nguyên được những đặc tính tính trạng của cây mẹ. Những đặc tính tính trạng đó chỉ có thể được nhân lên trong trường hợp chúng ta chọn đúng tổ hợp ghép, đồng thời chăm sóc cây ghép theo đúng yêu cầu kỹ thuật.

Trồng cây gốc ghép

Cớ 2 phương pháp trồng cây gốc ghép:

+ Gieo thẳng trong vườn ươm ra ngôi chờ ghép với mật độ thưa hơn trong vườn gieo và hơi dày hơn khi ra ngôi cây non. Trong thời gian chờ ghép tiến hành làm cỏ, xới vun cây từ 4 – 6 lần; bón phân hữu cơ và phân khoáng 2 – 3 lần. Tùy mức độ xuất hiện của sâu và bệnh hại mà quyết định số lần phun thuốc

+ Cây gốc ghép gieo thẳng đỡ tốn công ra ngôi nhưng lại tốn công chăm sóc trên diện tích rộng trong một thời gian dài.

Ở nước ta thường dùng cách gieo dày rồi sau đó ra ngôi trồng trong vườn chờ ghép. Do khi ra ngôi cây non bị đứt một phần rễ chính nên rễ phụ phát triển mạnh, phân nhánh nhiều và lan rộng, sinh trưởng nhanh. Một vài tháng đầu cây còn ở trong vườn gieo, diện tích hẹp nên rất đỡ công chăm bón và làm cỏ.

Thời vụ gieo hạt phụ thuộc vào thời vụ thu hoạch quả, cũng có thể xê dịch một vài tháng do đó thời vụ ra ngôi cũng phụ thuộc vào thời vụ gieo. Các tỉnh phía bắc hay gieo hạt vào vụ thu đông để ra ngôi cây con vào tháng 1 – 2 hoặc gieo vào tháng 5 để tháng 9 – 10 cùng năm có thể ghép được. Nếu dùng gốc chanh thì có thể gieo vào tháng 8, ra ngôi tháng 10 và tháng 2 năm sau có thể đạt tiêu chuẩn ghép nếu được chăm sóc tốt.

Ra ngôi vụ xuân có thuận lợi là ghép được vào vụ thu, dễ ghép và tỷ lệ sống cao (ở phía nam gieo hạt và ra ngôi theo hai vụ: vụ khô và vụ mưa). Ở các tỉnh khu 4 cũ và Nghệ Tĩnh nên tìm cách chuyển vụ ra ngôi cây con vào tháng 9 – 10 đến tháng 9 năm sau cây đạt tiêu chuẩn ghép nhiều và đỡ vất vả hơn so với ra ngôi cây con vụ xuân vì ở Nghệ Tĩnh có 4 tháng hoạt động của gió tây nóng nên cây con bị kìm hãm sinh trưởng rất nhiều.

Gốc ghép nhân bằng phương pháp vô tính

Việc sử dụng các dạng gốc ghép nhân vô tính là một trong những thành tựu mới trong nghề trồng cây ăn quả của thế giới, nó đã được sử dụng mạnh mẽ trong vòng 20 năm trở lại đây.

Có nhiều hình thức nhân gốc ghép vô tính như: Chiết, giâm cành, tách chồi… Đối với những cây dễ ra rễ nên áp dụng hình thức nhân giống gốc ghép bằng cách giâm cành còn xanh. Nếu dùng gốc chiết, phải đốn cho cây mọc nhiều cành non để chiết.

Kỹ thuật chiết, giâm cành, ra ngôi như đã trình bày ở bài trước.

Một số tổ hợp ghép có thể sử dụng ở nước ta

Thông thường người ta chọn những cây có quan hệ họ hàng về mặt thực vật để làm gốc ghép cho nhau. Trong nhiều trường hợp ghép cùng giống, cùng loài là dễ thành công nhất.

Trong những trường hợp cá biệt người ta đã ghép thành công giữa những cây khác họ, khác loài với nhau.

Trung Quốc đã dùng cây hồng (Dioa Piros kaki) làm gốc ghép cho cây nhót tây (Eribo trya Liundl), và dùng cây dâu tằm (Morusalba L.) làm gốc ghép cho lê (Pyrus L.). Mishurin cũng đã ghép được cây chanh trên gốc Cydonica vulgaris và ghép chanh với lê.

Gốc ghép phải đạt yêu cầu sau:

Có sức sinh trưởng tương đương với cành ghép.

Có bộ rễ sinh trưởng mạnh, phân nhánh tốt, nhiều rễ tơ.

Thích ứng tốt với điều kiện khí hậu của địa phương, chống chịu tốt với sâu và bệnh hại.

Dễ nhân giống và sinh trưởng nhanh.

Ở miền Bắc nước ta có thể dùng một số tổ hợp ghép sau trong nhân giống cây ăn quả:

Chanh Eureka, chanh yên, Tắc hạnh, chanh tứ thời địa phương, cam ngọt, cam voi Quảng Bình, trấp Thái Bình, quýt hôi địa phương, quýt Clêôpat, bưởi chua làm gốc ghép cho cam quýt, chanh, bưởi.

Táo quả nhỏ địa phương, táo giai làm gốc ghép cho táo Gia Lộc, táo Biên Hoà, táo Thiện Phiến, táo Đào tiên, Má hồng dòng 12, 32.

Mít (Artocarpus Heeterophyllus) ghép trên các giống mít địa phương; mít mật làm gốc ghép cho mít giai, mít tố nữ…

Nhãn lồng ghép trên gốc nhãn trơ địa phương (Euphoria longana L.).

Vải (Litsi chinesis L.), chôm chôm (Nepphilium lappaceum L.).

Lê (Pyrus L.) trên gốc mắc coọc (Lê dại P. pashia Ham hoặc Pyrus purifolia Nakai).

Các phương pháp ghép cây ăn quả

Ghép áp

Ra ngôi cây gốc ghép trong túi bầu PE (kích thước 10 x 13 cm hoặc 13 x 15 cm). Khi gốc ghép có đường kính tương đương với cành ghép, ta tiến hành chọn vị trí treo gốc ghép và sửa sang cành ghép: Cắt hết lá, cành tăm, cành gai ở vị trí định ghép. Sau đó dùng dao sắc cắt vát một miếng nhỏ vừa chớm đến lớp gỗ ở gốc ghép và cành ghép (dài 1,5 – 2cm, rộng 0,4 – 0,5 cm). Dùng dây nilông tốt buộc chặt cành ghép và cây gốc ghép lại với nhau ở vị trí vết cắt.

Buộc cố định túi bầu gốc ghép vào cành cây lân cận, hàng ngày phái tưới 2 lần cây gốc ghép và cá cây mẹ. Sau ghép 30 – 40 ngày vết ghép liền sẹo, có thể cắt ngọn gốc ghép, cắt gốc cành ghép cách chỗ buộc 2 cm. Đối với những cây khó ghép, có thể cắt gốc cành ghép làm 2 lần: lần đầu cắt 1/2 đường kính, 5 – 10 ngày sau thì cắt đứt hoàn toàn.

Phương pháp ghép này cho tỷ lệ sống rất cao (90 – 95%) nhưng rất công phu và hệ số nhân giống thấp. Những cây mẹ to cao, thao tác có nhiều khó khăn trở ngại. Phương pháp này cũng thường được áp dụng để nhân giống hoa và cây cảnh, một số cây ăn quả khó ghép mà không cần đến số lượng cây giống lớn

Ghép cành

Ghép đoạn cành là một phương pháp tương đối phổ biến trong nhân giống cây ăn quả; áp dụng trong trường hợp ghép các loại cây khó lấy mắt (gô cứng, vỏ mỏng giòn, khó bóc), hoặc ghép trong những thời vụ mà nhiệt độ và ẩm độ thấp, sự chuyển động nhựa trong cây kém. Nhiều khi kết hợp giữa ghép đoạn cành và ghép mắt để tận dụng cành ghép.

Làm vệ sinh vườn gốc ghép trước một tuần: Cắt cành phụ, gai ở đoạn cách mặt đất 15 – 20 cm, làm sạch cỏ vườn, bón phân, tưới nước lần cuối để cây chuyển động nhựa tốt.

Chọn những cành ra trong vụ xuân hoặc vụ hè trong năm (nếu là ghép trong vụ thu), đoạn cành có màu xanh, xen kẽ với đôi vạch màu nâu (bánh tẻ), lá to, mầm ngủ to. Sau khi cắt cành ghép, loại bỏ hết lá, bó lại thành từng bó trong bẹ chuối tươi hoặc giẻ ẩm để đem đến vườn ươm.

Dùng kéo cắt cành (xêcatơ) cắt ngọn gốc ghép ở vị trí cách mặt đất 10 – 15 cm. Sau đó tay trái giữ gốc ghép, tay phải dùng dao cắt vát một đoạn dài 1,5 – 2 cm. Lấy một đoạn cành có 2 -3 mầm ngủ dùng dao cắt vát đầu gốc một vết tương tự như ở gốc ghép, sao cho khi đặt lên gốc ghép, tượng tầng của gốc và cành chổng khít với nhau. Muốn vậy vết cắt phải nhẵn, phẳng và đường kính của gốc ghép và cành ghép phải tương đương. Sau khi buộc chặt bằng giây nilông mảnh và dai (loại dây nilông dệt bao bì), dùng nilông bản mỏng quấn kín vết ghép và đầu cành ghép lại. Buộc càng chặt càng tốt. Có thể cắt gốc ghép và cành ghép thành hình lưỡi gà giống nhau để gài cành ghép cho chắc.

Nếu trong thời gian tiến hành ghép mà đất hạn thì tưới nước và sau ghép 3 ngày phải tưới nước cho vườn gốc ghép. Sau ghép 30 – 35 ngày có thể mở dây buộc kiểm tra tỷ lệ cây sống. Ghép theo hình thức này, cây con rất chóng bật mầm.

Có thể ghép cành theo nhiều cách khác nhau như ghép nêm, ghép dưới vỏ, ghép chẻ bên (áp dụng khi gốc ghép có đường kính lớn).

Ghép mắt

Là phương pháp ghép rất phổ biến, áp dụng được cho nhiều giống loài cây ăn quá khác nhau; thao tác thuận tiện; có thể thu hoạch, báo quán, vận chuyển cành ghép đi xa, hệ số nhân giống cao, cây ghép ít bị nhiễm bệnh.

Ghép cửa sổ

Gốc ghép và cành ghép có đường kính tương đối lớn, chuyển động nhựa tốt, dễ bóc vỏ.

Cành lấy mắt ghép là những cành “bánh tẻ”, đường kính gốc cành từ 6 – 10 mm tùy mùa ghép và tùy theo giống loài. Mỗi cành có từ 6 – 8 mầm ngủ ở các nách lá to. Chú ý chọn những cành ngoài bìa tán, không có sâu bệnh và ở các cấp cành cao. Vệ sinh chăm sóc và chuẩn bị gốc ghép như ở phương pháp ghép đoạn cành. Dùng dao ghép mở “cửa sổ” trên thân gốc ghép, cách mặt đất từ 10 – 20 cm. Nếu đất ẩm thì mở cửa sổ cao, đất khô cần ghép thấp hơn. Kích thước miệng ghép “cửa sổ” 1 x 2 cm. Bóc một miếng vỏ trên cành ghép có mắt ngủ ở giữa, kích thước đúng bằng miệng ghép đã mở. Đặt mắt ghép vào “cửa sổ” đã mở của gốc ghép, đậy cửa sổ lại và quấn dây nilông mỏng cho thật chặt. Sau ghép 15 – 20 ngày có thể mở dây buộc và cắt miêng vỏ đậy ngoài của gốc ghép. Sau mở dây buộc 7 ngày cắt ngọn gốc ghép. Cắt ngọn gốc ghép cách vết ghép 2 cm và nghiêng một góc 45 0 về phía ngược chiều với mắt ghép. Ghép cửa sổ là một trong những phương pháp ghép có tỷ lệ sống cao nhất.

Ghép chữ T Là một phương pháp ghép phổ biến nhất ở tất cả các nước trồng cây ăn quả phát triển; tốc độ nhanh, có thể kết hợp từng cặp công nhân một người ghép, một người buộc dây. Phương pháp này cũng đòi hỏi gốc ghép và cành ghép phải đang trong thời kỳ chuyển động nhựa mạnh.

Chuẩn bị và làm vệ sinh vườn nhân gốc ghép như ở ghép cửa sổ. Chọn những cành ghép non hơn so với ghép cửa sổ một chút.

Mở miệng gốc ghép như sau: Dùng dao ghép rạch một đường ngang 1 cm cách mặt đất từ 10 – 20 cm. Sau đó từ điểm giữa rạch một đường vuông góc với đường rạch trên dài 2 cm, làm thành hình chữ T; dùng mũi dao tách vỏ theo chiều dọc vết ghép. Cắt mắt ghép theo hình vẽ (6a): Mắt có kèm theo cuống lá, dài 1,5 – 2 cm, có một lớp gỗ rất mỏng ở phía trong. Lát cắt phải thật “ngọt” tránh dập nát tế bào ở phía trong. Tay phải cầm cuống lá gài mắt ghép vào khe dọc chữ T đã mở, đẩy nhẹ cuống lá xuống. Dùng dây nilông mỏng và bền buộc chặt và kín vết ghép lại. Buộc càng chặt càng tốt.

Tùy theo mùa vụ và giống loài cây mà sau ghép 15 – 20 ngày có thể mở dây buộc, kiểm tra sức sống của mắt ghép. Nếu mắt ghép xanh, cuống lá vàng và rụng đi là chắc sống. Từ 7 – 10 ngày sau khi mở dây buộc có thể cắt ngọn gốc ghép.

Ghép mắt nhỏ có gỗ

ưu điểm nhất của phương pháp này là thao tác đơn giản, có thể tận dụng được mắt ghép. Ghép mắt nhỏ có gỗ có thể ghép được ở rất nhiều thời vụ. Trong điều kiện nước ta, đối với một số cây ăn quả nhất định có thể ghép được quanh năm. Trong phương pháp này cành ghép và gốc ghép không dóc vỏ cũng ghép được. Tất nhiên, khi cây chuyển nhựa tốt tỷ lệ sống sẽ cao hơn.

Chọn những cành ghép mập khỏe, còn có màu xanh hoặc mới xuất hiện một vài vạch nâu, đã bắt đầu “tròn mình”. Các tiêu chuẩn khác tương tự như trong phần ghép chữ T và cửa sổ.

Dùng dao cắt vát một lát hình lưỡi gà từ trên xuống, cách mặt đất từ 10 – 20 cm, có độ dày gỗ bằng 1/5 đường kính gốc ghép. Nếu cành ghép có đường kính nhỏ hơn gốc ghép thì vết ghép cắt mỏng hơn. Chiều dài ở miệng ghép chừng 1 – 1,2 cm. Cắt một miếng tương tự, có cuống lá và mầm ngủ ở giữa đặt nhanh vào vết ghép. Buộc chặt và kín bằng dây nilông dẻo. Sau ghép 18 – 30 ngày có thể mở dây buộc và cắt gọn gốc ghép. Nếu buộc bằng dây nilông mảnh và để hở đỉnh sinh trưởng của mầm ghép thì có thể cắt ngọn gốc ghép trước khi mở dây buộc (sau khi bật mầm được 10 – 15 ngày mới mở dây cũng được, vì cách này lâu liền da và mắt ghép dễ bị rời ra ngoài do gió hoặc người và gia súc đi lại chạm vào). Vết cắt ngọn gốc ghép cách vết ghép 1,5 – 2 cm.

Tóm lại phương pháp có nhiều nhưng áp dụng phổ biến cho việc nhân giống cây ăn quả là ghép chữ T và mắt nhỏ có gỗ. Tùy theo thời vụ và loại cây trồng, tùy tình trạng của gốc ghép và cành ghép mà chọn phương pháp ghép cho thích hợp. Ở nước ta, phương pháp ghép mắt nhỏ có gỗ tuy mới được áp dụng một vài năm gần đây nhưng được tiếp nhận rất nhanh chóng và đã trở thành một phương pháp ghép phổ biến.

Chăm sóc cây con sau khi ghép

Khi cành ghép vươn cao được 15 – 20 cm, bắt đầu làm cỏ vun gốc và bón phân. Việc phun thuốc trừ sâu có thể phải tiến hành sớm hơn khi mầm ghép mới mọc được 1 – 2 cm. Lần làm cỏ đầu phải thao tác nhẹ nhàng, tránh va đập vào gốc ghép và cành ghép. Sau đó cứ cách một tháng lại bón phân thúc cho cây con một lần. Loại phân và cách bón áp dụng như đối với chăm sóc cây gốc ghép. Tưới nước chống hạn kịp thời là biện pháp rất quan trọng quyết định sự phát triển của cây con sau khi ghép và tỷ lệ cây xuất vườn. Thường xuyên theo dõi, bắt sâu, phun thuốc phòng trừ sâu bệnh hại. Khi ghép trái vụ nhất là vào vụ hè nhiệt độ và ẩm độ vườn ươm rất cao, do đó phải thường xuyên phun Boocđô (1:1:100) để chống nấm gây héo cành.

Luôn luôn kiểm tra cắt bỏ các cành bất định mọc lên từ gốc ghép (thường gọi là cành dại).

Khi cành ghép mọc cao 40 – 50 cm, tùy giống cây ăn quả tùy dạng hình của gốc ghép mà tiến hành tỉa cành con, bấm ngọn tạo tán cho cành ghép. Trên môi cành ghép chỉ để 2 – 3 cành chính khỏe, phân bố đều về các phía. Khi cành chính mọc cao 20 – 25 cm lại tiếp tục bấm ngọn để môi cành chính ra 2 – 3 cành cấp II. Nhiều trường hợp phải đào cây con đi trổng từ khi có 2 – 3 cành chính. Việc tạo và sửa cành cấp II tiến hành ở vườn sản xuất: Cắt bỏ cành vượt, cành tăm, cành mọc lệch không đúng vị trí và những cành bị sâu bệnh.

Việc tạo hình cây con ở vườn ươm là rất cần thiết, lâu nay ít người chú ý, song cách tạo hình phải tùy thuộc vào thứ cây trổng, giống và hình thức nhân giống gốc ghép.

Nhân Giống Cây Có Múi: Nhân Giống Bằng Phương Pháp Chiết Cành

1. Khái niệm chiết cành

Chiết cành là ngưng sự di chuyển xuống của các chất hữu cơ như cacbonhytrates, Auxin… từ lá chồi ngọn, các chất này tích luỷ gần điểm xử lý (khoanh vỏ) và dưới tác động của ẩm độ, nhiệt độ thích hợp rễ mọc ra khi thân, cành vẫn chiết vẫn dính trên cây mẹ.

2. Ưu khuyết điểm của phương pháp chiết cành

2. 1.Ưu điểm

+ Tạo ra được giống cam, quýt, bưởi đồng đều về kiểu di truyền.

+ Hệ số nhân giống cao, nhanh cho ra quả và giá thành hạ.

+ Phù hợp trồng ở những vùng đất thấp, mực nước ngầm nông.

2.2. Khuyết điểm

+ Dễ lây lan mầm bệnh.

+ Bộ rễ ăn cạn tuổi thọ thấp

+ Đối với cây có múi hiện nay do áp lực của bệnh vàng lá Greening.

3. Chuẩn bị vật liệu, phương tiện

3.1. Chọn dụng cụ

Dụng cụ bao gồm: Cưa, kéo, dao, túi nylon bó bầu, dây

3.2. Chuẩn bị dụng cụ

Việc dùng dao chiết không đúng loại hoặc dao chiết không được mài dũa sắc bén sẽ gây ra khó khăn trong quá trình thao tác và chất lượng chiết cành sẽ không đạt yêu cầu. Vì vậy, việc lựa chọn đúng loại dụng cụ phù hợp cho từng loại cây chiết là điều cần thiết, dao chiết dùng cho chiết cây có múi thường có kích thước:

– Chiều dài từ 6 – 12 cm.

– Chiều rộng từ 1 – 4 cm.

– Bề dày từ 2 – 4 mm.

Yêu cầu:

– Dao chiết phải sắc bén và chắc chắn.

– Kéo cắt cành : Dùng để cắt các cành nhánh.

– Khử trùng sạch để tránh lây lan mầm bệnh

Dao chiết

– Dây nilông : Dùng để buộc bầu chiết.

– Nilông dùng bó bầu chiết tốt nhất là màu đen (vì màu đen không thu nhiệt bầu chiết sẽ mát hơn).

Bộ dụng cụ dùng chiết cành

3.3. Chuẩn bị nguyên vật liệu

3.3.1. Các loại nguyên liệu

– Đất bó bầu gồm 2/3 là đất vườn hoặc đất bùn ao phơi khô, đập nhỏ + 1/3 là mùn cưa (hiện nay sử dụng bột xơ dừa), rơm rác mục, xơ dừa… tưới ẩm,

– Trộn rơm bùn: tỷ lệ 1:2 hoặc 1:1 tùy theo bùn khô vừa hay nhão

– Tro trấu với xơ dừa tỷ lệ 1: 2, vừa đủ ẩm

– Rễ lục bình

Phần rễ lục bình sau khi xử lý sẽ là vật liệu bó bầu rất tốt

Độ ẩm vừa đủ (thử bằng cách các vật liệu nắm trên lòng bàn tay, nếu khô nước không thấm ra, ướt nhỏ ra kẽ tay, chỉ vừa ướt trong lòng bàn tay là được)

Tuy nhiên tuỳ theo từng vùng, miền, ta có thể thay đổi tỷ lệ này để thích hợp.

Cây lục bình

– Bao nilong loại dẻo tùy theo kích thước cành chọn mà quyết định kích thước bao (loại bao trắng đựng đường loại từ 300- 500g)

– Bao nilong cuộn trong

Nhựa dẻo bó bầu chiết – Túi nilong và bột xơ dừa

-Trường hợp dự kiến khó ra rễ (cây già cành to, loại cây khó chiết), hoặc để cho cành ra rễ nhanh và đều. Có thể dùng chất kích thích IAA – IBA – NAA, dùng phổ biến NAA

Chất kích thích và bông để quét

3.3.2. Xử lý nguyên liệu

Các loại vật liệu trên cần xử lý tránh ảnh hưởng đến sự ra rễ sau này. Rễ lục bình cần rửa sạch, phơi, bột xơ dừa cần xử lý bằng cách ngâm cho hết chất chát, bùn không được lấy nơi nhiễm phèn, bẩn, rơm khô cần phải sạch không lấy rơm nơi ruộng bị bệnh

4. Chiết cành

4.1. Chọn cây mẹ và cành chiết

4.1.1. Tiêu chí lựa chọn cây mẹ

– Lựa chọn cây đầu dòng đã cho quả và năng suất ổn định nhiều năm

– Không có triệu chứng bệnh Greening hoặc phytophthora sp ( quan sát bằng mắt).

– Đúng theo tiêu chuẩn ngành (TCN), tiêu chuẩn cơ sở (TCCS), tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN), tùy theo loại cây được đã được công nhận và cho phép nhân giống.

– Kiểm tra đúng giống và có lý lịch giống cấp S1 hoặc trên lô nhân nhanh có chứng thực

* Cơ bản cần chọn:

+ Các cây được trồng khi đã cho trái.

+ Các cây có tán đều, nhiều cành, năng suất cao, quả to, ngon.

Chọn cây mẹ

4.1.2. Tiêu chuẩn cành chiết

– Chọn cành bánh tẻ (không già không non ), sinh trưởng tốt,vị trí ở ngoài trảng, đường kính cành 0,5-1,0cm

Bảng 1: Yêu cầu kỹ thuật

Không các triệu chứng của các bệnh, thí dụ trên cây có múi: Vàng lá gân xanh, Triteza, loét, ghẻ, chảy nhựa, thán thư và sâu hại: Sâu vẽ bùa,..

Các cây khác đều phải sạch bệnh theo qui định.

4.1.3. Đánh dấu cành đã chọn

– Dùng dụng cụ đánh dấu (dùng sơn hoặc dây buộc)

– Ghi rõ theo hướng

4.1.4. Mùa vụ chiết cành

Nên chiết vào mùa mưa khoảng tháng 5 – 6 ở miền Nam, vì các lý do sau:

– Về mùa mưa nhiệt độ không quá cao, nắng ít chiếu vào bầu chiết, đất trong bầu không bị khô thuận tiện cho việc ra rễ.

– Về mùa mưa cây lên nhựa dễ bóc vỏ.

– Không nên chiết vào những lúc mưa nhiều vì quá ẩm sẽ khó ra rễ và cành dễ bị nhiễm nấm

4.2. Phương pháp tiến hành

– Xác định cành, vị trí chiết

– Khoanh và bóc vỏ: Dùng dao chiết khoanh tại vị trí chiết cành một đoạn dài từ 1.5-2.0 cm, cách ngọn 0.5m.

Chiều dài khoanh vỏ bằng 1,5 – 2 lần đường kính gốc cành.

Khoanh vỏ

Bóc vỏ

– Cạo tượng tầng (Tầng sinh gỗ và libe): Dùng sống dao cạo nhẹ hết chất nhờn trên mặt gỗ, ở dưới lớp vỏ đã bóc, mục đích của việc này là loại bỏ tầng sinh gỗ.

– Nếu không cạo sạch, không để khô mà đắp vật liệu lên ngay thì tầng sinh gỗ còn sống và sẽ hình thành một cầu dinh dưỡng mới (làm cành chiết không ra rễ vì chất dinh dưỡng từ cây mẹ vẫn đưa lên nuôi sống cành chiết).

– Sau khi đã cạo sạch tượng tầng, có thể dùng nilon quấn kín đoạn vừa cạo lại, tránh liền da.

– Sau 1 tuần tháo ra và bó bầu, có thể bó ngay sau khi quét kích thích ra rễ.

– Tác dụng chất kích thích ra rễ là giúp rễ ra nhanh hơn và nhiều. Thường quét thuốc xong bó ngay

– Trước khi quét thuốc dùng dao bấm một vài đường ở phần trên cho thuốc dể thấm vào.

– Quét thuốc: Dùng cọ mềm hoặc bông gòn, nhúng vào dung dịch thuốc chỉ quét phần trên cành không quét phần dưới gốc cành

Cách quét thuốc

4.3. Bó bầu

Tùy theo theo loại cây có thể bó ngay hoặc là 1-2 ngày sau khi khoanh vỏ.

– Hỗn hợp không quá nhão, quá khô

– Dùng túi nilon (có thể giấy polyetylen tận dụng) bọc ra bên ngoài, buộc chặt 1 đầu phía dưới gốc bầu;

Buộc túi nilong

Hoặc dùng nhựa cuộn bó dễ dàng và nhanh hơn

Bó bầu

– Đưa hỗn hợp vào túi ém chặt, đường kính hỗn hợp đưa vào từ 10 – 12 cm, dài từ 12 – 15 cm (tuỳ cành to hay nhỏ), bọc ra bên ngoài, buộc chặt đầu phía đầu trên.

Quy trình thực hiện công việc

Bước1. Chuẩn bị dụng cụ và giá thể bó bầu: Dao kéo, dây, giá thể

Bước 2. Lựa chọn đúng cây mẹ cành để khoanh vỏ

– Lựa chọn đúng cây mẹ đầu dòng đã cho quả và năng suất ổn định nhiều năm

– Lựa chọn cành bánh tẻ trung tán, đường kính cành chiết 0.5- 1.0 cm

Bước 3. Cắt khoanh vỏ cành chiết, vệ sinh vết cắt, xử lý chất kích thích ra rễ

– Dùng dao khoanh và bóc vỏ độ dài khoanh vỏ 1.5-2.0 cm, làm sạch tượng tầng

– Làm vệ sinh vết cắt khoanh vỏ.

– Bôi chất kích rra rễ lên vùng ra rễ của cành chiết được lấy trên các cây giống đã được chọn lọc ở thời kỳ sinh trưởng khoẻ, cây có năng suất cao, ổn định và không có sâu bệnh nguy hiểm gây hại.

– Chọn những cành có đường kính từ 0.5-1.0cm ở tầng tán giữa và phơi ra ngoài ánh sáng, không chọn cành dưới tán và các cành vượt.

Các bước thực hiện được tóm tắc theo hình 13

Trình tự bầu (chiết)

a. Khoanh vỏ; b. cọ quét thuốc; c. vị trí quét thuốc; d. đưa hỗn vào; e. bó lại

5. Chăm sóc cành chiết:

Bổ sung nước vào bầu chiết khi quá khô để rễ phát triển mạnh

-Ẩm độ bầu: qua cảm quan ta có thể đánh giá được bầu chiết khô hay ướt. Nếu bầu khô thì xử lý bằng cách dùng kim tiêm bơm nước vào bầu. Nếu quá ướt cần tháo bầu ra vắt vừa đủ ẩm và bó lại như cũ. Vì thế khi tưới cho cây mẹ không nên tưới trực tiếp lên các bầu đã bó.

– Khi bầu chiết bị kiến, mối, bệnh gây hại thì kịp thời xử lý 6. Cắt cành chiết

– Bầu chiết sau khi bó thông thường đều ổn định và ít bị hư hỏng. Song vẫn có thể bị hư hỏng do mưa gió hay súc vật tác động làm bầu chiết bị rách, vỡ…các trường hợp trên cần phải bó, buộc lại.

– Kiểm tra mức độ ra rễ: tùy loại cây từ có thể từ 3 tuần đến 1 tháng, nếu bầu nào không ra rễ thì loại bỏ.

– Kiểm tra cành trước khi cắt

– Khi các rễ đã ra đồng đều và nhiều trên bầu

– Khi rễ mọc ra có màu vàng nâu và có rễ thứ cấp, cắt cành chiết đem vô bầu để giâm.

Có thể dùng cưa nhỏ, kéo cắt cành, nhẹ nhàng đặt vào điểm cắt (điểm cắt tính từ phía cây mẹ ra bầu chiết) cắt bầu chiết khoảng 5 – 8 cm (tránh cho cành chiết bị giập nát) sau khi cắt xong ta nâng cành chiết lên, bầu chiết không bị vỡ, cần loại bỏ đi một ít lá cành

Yêu cầu: Cắt nhẹ nhàng, tránh làm vỡ bầu hay giập nát cành chiết (làm cành chiết bị yếu – khi trồng phát triển chậm).

Cưa cắt cành

– Xử lý cành sau cắt: Cắt tỉa lá cành, tránh bóc thoát hơi nước

– Xử lý thuốc trừ nấm bệnh, những loại thuốc gốc đồng theo khuyến cáo 7. Giâm cành chiết

– Sự cần thiết phải giâm cành chiết trước khi đem trồng: Bộ rễ cành chiết khi mới cắt rời khỏi thân cây mẹ còn yếu, thường dễ chết do mất cân bằng nước nghiêm trọng

– Tại sao phải cắt bớt lá non và mầm non trước khi giâm? Nhằm hạn chế sự mất cân bằng nước ở cây giâm

– Việc giâm cành chiết sau khi cắt là bước làm cho cây ổn định và tiếp tục sinh trưởng.

– Khi cành chiết mới cắt chưa kịp phục hồi, ổn định, nếu đem trồng ngay cành chiết có thể bị chết hoặc phát triển chậm. Để cành chiết có điều kiện thích nghi với môi trường độc lập và phát triển tốt nên giâm cành chiết một thời gian từ 2 – 3 tuần rồi đem trồng.

– Chuẩn bị vật liệu giâm (bao nilon đen, kích thước tùy theo cây giống)

– Giâm lại trong nhà giâm, xử lý nhúng những cành sau khi cắt vào dung dịch thuốc bệnh Benomyl 50 WP

– Vật liệu giâm gồm có tro trấu, trấu mục, xơ dừa, phân hữu cơ hoai mục, những nguyên liệu phải giử ẩm tốt, thoáng và thoát nước tốt

– Môi trường giâm: Tro trấu, sơ dừa, đất, theo tỉ lệ 1:1:0,5 kết hợp thuốc trừ sâu, bệnh và phân vô cơ, hỗn hợp được trộn đều cho vào bao PE có đục lổ sẵn

6. Chăm sóc cành chiết sau khi giâm

– Đảm bảo ẩm độ không khí bảo hoà, ẩm độ đất 70%, ánh sáng tán xạ 4000-6000 lux là thích hợp

– Cành chiết mới giâm còn yếu vì vậy ta làm giàn che nắng cho cây. Tuỳ theo mức độ thời tiết, để làm giàn che cho phù hợp.

– Nhà giâm thường che nắng bằng lưới đen giảm ánh sáng 50%.

Nguồn: Giáo trình nghề trồng cây có múi – Bộ NN&PT NT

Các bước trong kỹ thuật nhân giống cây cảnh bằng hình thức chiết, giâm cành, ghép. Thực hiện chiết, giâm cành một số cây cảnh thông thường đúng kỹ thuật…

Hướng dẫn chuẩn bị thiết bị, dụng cụ và vật liệu phục vụ cho gieo hạt cây có múi. Thực hiện sản xuất cây giống cây có múi, ưu nhược điểm của phương pháp gieo hạt cây có múi…

Là phương pháp cắt rời một phần thân cây như cành, rễ hoặc lá, đặt trong môi trường thích hợp để tạo ra rễ, chồi mới, hình thành cây con sống độc lập và mang những đặc điểm giống cây mẹ…