Top 9 # Xem Nhiều Nhất Phương Pháp Luận Biện Chứng Và Siêu Hình Ví Dụ Mới Nhất 5/2023 # Top Like | Cuocthitainang2010.com

So Sánh Phương Pháp Biện Chứng Và Phương Pháp Siêu Hình?

Phương pháp hiểu theo nghĩa chung nhất là hệthống các nguyên tắcđược sửdụngnhất quán trong hoạt động nói chung của con người. Phương pháp bao gồm có phương pháp nhận thức và phương pháp thực tiễn. Phương pháp của triết học là phương pháp nhận thức thế giới hiện thực. Trong lịch sử phát triển của triết học, đã tồn tại hai phương pháp nhận thức đối lập nhau: đó làphương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.

Phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức thếgiới với quanđiểm cơbảncho rằng, sự tồn tại của mọi sự vật và hiện tượng của thế giới khách quan nói chung đều ở trong những mối liên hệ, trong sự vận động và phát triển theo những qui luật khách quan vốn có của nó.

Phương pháp siêu hình là phương pháp nhận thức thếgiới với quanđiểm cơbản chorằng, mọi sự vật và hiện tượng của thế giới vật chất đều tồn tại cô lập lẫn nhau, cái này ở bên cạnh cái kia và nó luôn ở trong trạng thái tĩnh không có sự vận động và phát triển. Nhưng nếu như có thừa nhận sự phát triển thì chẳng qua chỉ là một quá trình tăng hoặc giảm về số lượng. Mặt khác, quan điểm này không thừa nhận mâu thuẫn bên trong bản thân các sự vật và hiện tượng.

Sự đối lập giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong lịch sửtriếthọc chủ yếu về mặt nguyên tắc và phương pháp nhận thức thế giới khách quan. Trong việc nghiên cứu của khoa học tự nhiên, thì vấn đề phân chia thế giới hiện thực thành các thuộc

tính, bộ phận, hệ thống tĩnh tại và tách rời nhau đều là những điều kiện cần thiết cho nhận thức khoa học. Nhưng sẽ không đúng, nếu từ đó rút ra kết luận cho rằng phép siêu hình là thế giới quan khoa học và đúng đắn nhất. Cần phải phân biệt một bên là phương pháp trừu tượng hoá tạm thời cô lập sự vật và hiện tượng khỏi mối liên hệ chung, tách khỏi sự vận động và phát triển để nghiên cứu chúng, với một bên là phép siêu hình với tư cách là thế giới quan của triết học.

Sự Đối Lập Giữa Phương Pháp Siêu Hình Và Phương Pháp Biện Chứng

Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng

a) Phương pháp siêu hình

Phương pháp siêu hình là phương pháp:

+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các chỉnh thể khác và giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối. + Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; nếu có sự biến đổi thì đấy chỉ là sự biến đổi về số lượng, nguyên nhân của sự biến đổi nằm ở bên ngoài đối tượng.Phương pháp siêu hình làm cho con người “chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng”.Phương pháp siêu hình bắt nguồn từ chỗ muốn nhận thức một đối tượng nào trước hết con người cũng phải tách đối tượng ấy ra khỏi những mối liên hệ và nhận thức nó ở trạng thái không biến đổi trong một không gian và thời gian xác định. Song phương pháp siêu hình chỉ có tác dụng trong một phạm vi nhất định bởi hiện thực không rời rạc và ngưng đọng như phương pháp này quan niệm.

b) Phương pháp biện chứng

Phương pháp biện chứng là phương pháp: + Nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng nhau, ràng buộc nhau. + Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển. Đây là quá trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện tượng mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy là đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng. Như vậy phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Nó thừa nhận trong những trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái “hoặc là… hoặc là…” còn có cả cái “vừa là… vừa là…” nữa; thừa nhận một chỉnh thể trong lúc vừa là nó lại vừa không phải là nó; thừa nhận cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau lại vừa gắn bó với nhau.Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ vậy, phương pháp tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới

Giữa Phương Pháp Biện Chứng Và Phương Pháp Siêu Hình Có Sự Khác Biệt Căn Bản Gì?

1. Sự đối lập giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình

Trong lịch sử triết học, bên cạnh vấn đề bản chất thế giới là vật chất hay tinh thần, còn một vấn đề quan trọng khác cần triết học giải quyết – đó là vấn đề về trạng thái tồn tại của thế giới. Vấn đề đó được biểu hiện qua các câu hỏi đặt ra: Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại trong trạng thái biệt lập, tách rời, đứng im, bất biến hay có quan hệ, ràng buộc với nhau, không ngừng vận động, biến đổi? Giải đáp câu hỏi đó đã làm nảy sinh hai phương pháp (quan điểm) nhận thức đối lập nhau – phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.

a) Phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái biệt lập, tách rời với các sự vật khác; xem xét sự vật trong trạng thái không vận động, không biến đổi.

Phương pháp siêu hình bắt nguồn từ quan niệm cho rằng muốn nhận thức một đối tượng nào đó trước hết phải tách đối tượng đó ra khỏi mọi mối quan hệ với các sự vật, hiện tượng khác; đồng thời phải nhận thức đối tượng trong trạng thái không vận động, không biến đổi. Việc xem xét đối tượng sự vật theo quan niệm như vậy cũng có tác dụng nhất định. Tuy nhiên, sai lầm căn bản của phương pháp siêu hình chính là đã tuyệt đối hoá trạng thái tĩnh tương đối của đối tượng sự vật. Trong thực tế, các sự vật, hiện tượng không tồn tại trong trạng thái tĩnh, bất biến một cách tuyệt đối. Trái lại, các sự vật hiện tượng luôn nằm trong những mối quan hệ và trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng.

Ph.Ăngghen đã từng vạch rõ sự hạn chế của phương pháp siêu hình là “Chỉ nhìn thấy những sự vật mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng” .

b) Phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái quan hệ qua lại, ràng buộc lẫn nhau với các sự vật khác xung quanh; xem xét sự vật trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng của nó.

Phương pháp biện chứng là hệ quả tất yếu của quan điểm biện chứng, – quan điểm khẳng định các sự vật hiện tượng đều luôn tồn tại trong trạng thái vận động và trong mối quan hệ hữu cơ với nhau. Do đó, muốn nhận thức đúng về sự vật, cần phải nhận thức, xem xét sự vật trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng của nó, trong trạng thái quan hệ qua lại, ràng buộc lẫn nhau giữa nó với các sự vật khác xung quanh.

Có thể kết luận rằng: Sự khác biệt căn bản giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng là ở chỗ, phương pháp siêu hình nhìn nhận sự vật bằng một tư duy cứng nhắc, máy móc; còn phương pháp biện chứng nhìn nhận, xem xét sự vật với một tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Phương pháp biện chứng không chỉ nhìn thấy những sự vật cụ thể mà còn thấy mối quan hệ qua lại giữa chúng; không chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà còn thấy cả sự sinh thành, sự diệt vong của chúng; không chỉ thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy cả trạng thái động của sự vật; không chỉ “thấy cây mà còn thấy cả rừng”. Đối với phương pháp siêu hình thì, sự vật hoặc tồn tại, hoặc không tồn tại; hoặc là thế này, hoặc là thế khác; “hoặc là… hoặc là…”, chứ không thể vừa là thế này vừa là thế khác; “vừa là… vừa là…”. Đối với phương pháp biện chứng thì, một sự vật vừa là thế này vừa là thế kia, “vừa là… vừa là…”. Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực khách quan đúng như nó đang tồn tại. Vì vậy, phương pháp biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới.

2. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng

Với tư cách là một phương pháp nhận thức đúng đắn về thế giới, phương pháp biện chứng không phải ngay khi ra đời đã trở nên hoàn chỉnh, mà trái lại nó phát triển qua từng giai đoạn gắn liền với sự phát triển của tư duy con người. Trong lịch sử triết học, sự phát triển của phương pháp biện chứng được biểu hiện qua ba hình thức lịch sử của phép biện chứng: phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng duy vật.

+ Phép biện chứng tự phát là hình thức biện chứng tồn tại ở thời cổ đại. Các nhà biện chứng cổ đại cả phương Đông lẫn phương Tây đã nhận thức được các sự vật, hiện tượng của vũ trụ luôn tồn tại trong trạng thái vận động, biến đổi và trong những mối liên hệ chằng chịt với nhau. Tuy nhiên, những nhận xét của các nhà biện chứng cổ đại về sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng chủ yếu vẫn chỉ là kết quả của sự quan sát, trực kiến thiên tài chứ chưa phải là kết quả của sự nghiên cứu và của thực nghiệm khoa học. Vì vậy, tư tưởng biện chứng thời kỳ này chủ yếu dừng ở những đánh giá về hiện tượng biến đổi, mối liên hệ giữa các sự vật chứ chưa thật sự đi sâu vào xem xét bản thân sự vật để có những nhận xét sâu sắc về sự vận động của sự vật. Theo Ph.Ăngghen, cách nhận xét thế giới của các nhà biện chứng cổ đại như trên là cách nhận xét còn nguyên thuỷ, ngây thơ nhưng căn bản là đúng.

+ Phép biện chứng duy tâm biểu hiện tập trung, rõ nét nhất trong triết học cổ điển Đức, mà người khởi đầu là I.Cantơ và người hoàn thiện là Ph.Hêghen. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử của tư duy nhân loại, các nhà biện chứng trong nền triết học cổ điển Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của phép biện chứng. Các nhà biện chứng cổ điển Đức không chỉ nhìn thế giới trong quá ttrình vận động, phát triển, trong tính chỉnh thể thống nhất mà còn khẳng định về tính quy luật của sự phát triển đó. Tuy nhiên, phép biện chứng này lại mang tính duy tâm, biểu hiện ở việc khẳng định sự phát triển của thế giới xuất phát từ tinh thần và kết thúc cũng ở tinh thần. Theo Ph.Hêghen, sự phát triển thực chất là quá trình vận động, phát triển của yếu tố tinh thần gọi là “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần tuyệt đối”. Trong quá trình phát triển của mình, “ý niệm tuyệt đối” tự tha hoá chuyển thành giới tự nhiên, xã hội để sau đó lại quay trở về bản thân mình. Như vậy, đối với phép biện chứng duy tâm này, sự vận động phát triển của giới hiện thực chẳng qua chỉ là sự sao chép lại sự tự vận động của “ý niệm tuyệt đối”.

+Phép biện chứng duy vật là hình thức biện chứng biểu hiện trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng trên cơ sở khắc phục tính chất duy tâm của phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức, sau đó được V.I.Lênin phát triển. C.Mác và Ph.Angghen đã gạt bỏ tính chất duy tâm, thần bí đồng thời kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm để xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển.

Nói Quá Là Gì, Ví Dụ Biện Pháp Nói Quá Lớp 8

Trong các tác phẩm văn học hoặc trong đời sống ngày chắc chắn chúng ta thường bắt gặp việc sử dụng nói quá. Vậy nói quá là gì? tác dụng của biện pháp nói và các ví dụ về biện pháp tu từ này. Thông tin bài học hôm nay sẽ được chuyển tải ngay bên dưới.

Nói quá là gì?

Trên mạng có rất nhiều khái niệm về nói quá, về cơ bản tất cả đều đúng nhưng nên dựa vào SGK có tính chuẩn xác cao nhất. Theo SGK Văn 8 nói quá là một biện pháp tu từ nhằm phóng đại mức độ, quy mô, tính chất sự việc, hiện thường với mục đích chính là tạo ấn tượng, tạo điểm nhấn, tăng sức biểu cảm cho diễn đạt.

Tác dụng của biện pháp nói quá

Nói quá là phép tu từ thường dùng nhằm tạo ấn tượng, tăng sức biểu cảm.

Nói quá sử dụng trong khẩu ngữ hàng ngày như lo sốt vó, buồn nẫu ruột, tức sôi máu, vắt chân lên cổ, mệt đứt hơi…

Không chỉ vậy phép tu từ nói quá còn dùng trong các tác phẩm văn học cụ thể như các bài ca dao, châm biếm, anh hùng ca.

Bài toán khó quá nghĩ nát óc mà không ra.

Tây Thi có vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành.

Gần tới kì thi cuối kỳ, Nam lo sốt vó.

Bị điểm kém, Hà khóc như mưa.

“khóc như mưa” phép nói quá diễn tả khóc nhiều.

Phân biệt nói quá và nói khoác

Học sinh cần phân biệt rõ ràng giữa nói quá và nói khoác tránh nhầm lẫn khi sử dụng trong đời sống cũng như khi diễn đạt trong các bài tập làm văn.

Nói quá: nói đúng sự thật (tích cực), là biện pháp cường điệu tạo ấn tượng, tăng biểu cảm.

Nói khoác: nói sai sự thật (tiêu cực), mục đích khoe khoang là chính. Không những không có giá trị biểu cảm mà còn khiến người khác có thể hiểu nhầm, sai ý nghĩa.

Như vậy, sau bài này học các em cần phải hiểu nói quá là gì? tác dụng và đưa ra được các ví dụ minh họa. Có như vậy mới sử dụng đúng cách và chuẩn xác nhằm tăng biểu cảm cho diễn đạt.

Hướng dẫn soạn bài Nói quá

I. Nói quá và tác dụng

1. Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng

Ngày tháng mười chưa cười đã tối Với câu “Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày”.

2. Khi nói như vậy sẽ diễn tả cường điệu sự vật quá mức bình thường mục đích sẽ nhấn mạnh sự việc, hiện tượng đó. Như vậy sự vật hiện tượng không bị phóng đại quá mức nhưng vẫn có mục đích nhấn mạnh.

II. Luyện tập

1. a. Nói quá về sức người, nhưng rất đúng : bàn tay con người có thể biến sỏi đá thành cơm.

b. Nhấn mạnh dù vết thương có đau vẫn có thể đi bất cứ đâu – đi lên đến tận chân trời.

c. Nói quá về lời nói của con người của con người có quyền hành, sức mạnh mỗi lời nói ra là người khác phải nghe theo. “Thét ra lửa” nói về nhân vật Bá Kiến trong tác phẩm Chí Phèo.

2. a. Ở nơi mà chó ăn đá gà ăn sỏi đến cỏ không mọc nổi nữa là trồng rau, trồng cà.

b. Nhìn thấy tội ác của giặc ai ai cũng bầm gan tím ruột.

c. Cô Nam tính tình xởi lợi ruột để ngoài da.

d, e Các em tự làm.

3. Đặt câu có sẵn về nói quá:

– Thúy Kiều có vẻ đẹp nghiên nước nghiêng thành.

– Sơn Tinh thưở xưa dời non lấp biển.

– Những chiến sĩ mình đồng da sắt.

– Nghĩ đã nát óc mà vẫn chưa hiểu bài toán này.

4. Tìm ra 5 thành ngữ có sử dụng biện pháp nói quá trong câu.

– Khỏe như voi.

– Nhanh như cắt.

– Ngủ như heo

– Hiền như đất.

– Chậm như rùa.