Top 6 # Xem Nhiều Nhất Phương Pháp Luận Của Phép Biện Chứng Duy Vật Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Cuocthitainang2010.com

Phép Biện Chứng Duy Vật

a) Khái niệm phép biện chứng duy vật

Định nghĩa khái quát về phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen cho rằng: “Phép biện chứng… là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin còn có một số định nghĩa khác về phép biện chứng duy vật. Khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, Ph.Ăngghen đã định nghĩa: “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”; còn khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về sự phát triển (trong đó có bao hàm học thuyết về sự phát triển của nhận thức) trong phép biện chứng mà C.Mác đã kế thừa từ triết học của Hêghen, V.I.Lênin đã khẳng định: “Trong số những thành quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng”‘,V.V..

b) Những đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật

Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin có hai đặc trưng cơ bản sau đây:

Một là, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin là phép biện chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học. Với đặc trưng này, phép biện chứng duy vật không chỉ có sự khác biệt căn bản với phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức, đặc biệt là với phép biện chứng của Hêghen (là phép biện chứng được xác lập trên nền tảng thế giới quan duy tâm), mà còn có sự khác biệt về trình độ phát triển so với nhiều tư tưởng biện chứng đã từng có trong lịch sử triết học từ thời cổ đại (là phép biện chứng về căn bản được xây dựng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật nhưng đó là chủ nghĩa duy vật còn ở trình độ trực quan, ngây thơ vàchất phác).

Hai là, trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin có sự thống nhất giữa nội dung thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận hiện chứng duy vật, do đó nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Mỗi nguyên lý, quy luật trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác Lênin không chỉ là sự giải thích đúng đắn về tính biện chứng của thế giới mà còn là phương pháp luận khoa học của việc nhận thức và cải tạo thế giới. Trên cơ sở khái quát mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, những quy luật phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của tất thảy mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin cung cấp những nguyên tắc phương pháp luận chung nhất cho quá trình nhận thức thế giới và cải tạo thế giới, đó không chỉ là nguyên tắc phương pháp luận khách quan mà còn là phương pháp luận toàn diện, phát triển, lịch sử – cụ thể, phưong pháp luận phân tích mâu thuẫn nhằm tìm ra nguồn gốc, động lực cơ bản của các quá trình vận động, phát triển, V.V.. Với tư cách đó, phép biện chứng duy vật chính là công cụ khoa học vĩ đại để giai cấp cách mạng nhận thức và cải tạo thế giới.

Với những đặc trưng cơ bản trên, phép biện chứng duy vật giữ vai trò là một nội dung đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tạo nên tính khoa học và cách mạng của chú nghĩa Mác – Lênin, đồng thời nó cũng là thế giới quan vả phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn.

chúng tôi

Câu 5: Hai Nguyên Lý Cơ Bản Của Phép Biện Chứng Duy Vật Và Ý Nghĩa Phương Pháp Luận

Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Vì thế Ph.Ăngghen đã định nghĩa: “phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.

I. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật và hiện tượng

1. Khái niệm mối liên hệ phổ biến:

Là khái niệm dùng để chỉ sự tác động và ràng buộc lẫn nhau, quy định và chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận trong một sự vật hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.

2. Nội dung và tính chất của mối liên hệ

– Tính khách quan và phổ biến của mối liên hệ: Nhờ có mối liên hệ mà có sự vận động, mà vận động lại là phương thức tồn tại của vật chất, là một tất yếu khách quan, do đó mối liên hệ cũng là một tất yếu khách quan.

Mối liên hệ tồn tại trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng ở tất cả lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.

Mối liên hệ phổ biến là hiện thực, là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, nó thể hiện tính thống nhất vật chất của thế giới.

– Do mối liên hệ là phổ biến, nên nó có tính đa dạng: Các sự vật; hiện tượng trong thế giới vật chất là đa dạng nên mối liên hệ giữa chúng cũng đa dạng, vì thế, khi nghiên cứu các sự vật, hiện tượng cần phải phân loại mối liên hệ một cách cụ thể.

Căn cứ vào tính chất, phạm vi, trình độ, có thể có những loại mối liên hệ sau: chung và riêng, cơ bản và không cơ bản, bên trong và bên ngoài, chủ yếu và thứ yếu, không gian và thời gian, v.v.. Sự phân loại này là tương đối, vì mối liên hệ chỉ là một bộ phận, một mặt trong toàn bộ mối liên hệ phổ biến nói chung.

– Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất và phổ biến nhất của thế giới khách quan. Còn những hình thức cụ thể của mối liên hệ là đối tượng nghiến cứu của các ngành khoa học cụ thể.

3. Ý nghĩa phương pháp luận

– Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hoá, quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ biến nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiến con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện.

Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật.

Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên, và lưu ý đến sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân.

Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời, chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, một mặt, chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt khác, phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hóa kinh tế đưa lại.

– Vì các mối liên hệ có tính da dạng, phong phú – sự vật, hiện tượng khác nhau, không gian, thời gian khác nhau các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm lịch sử – cụ thể.

Quan điểm lịch sử – cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử – cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy rằng, một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này, nhưng sẽ không là luận điểm khoa học trong điều kiện khác.

Vì vậy để xác định đúng đường lối, chủ trương của từng giai đoạn cách mạng, của từng thời kỳ xây dựng đất nước, bao giờ Đảng ta cũng phân tích tình hình cụ thể của đất nước ta cũng như bối cảnh lịch sử quốc tế diễn ra trong từng giai đoạn và từng thời kỳ đó và trong khi thực hiện đường lối, chủ trương, Đảng ta cũng bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến của hoàn cảnh cụ thể.

II. Nguyên lý về sự phát triển

1. Khái niệm phát triển – Phát triển là sự vận động tiến lên (từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn).

– Từ khái niệm trên cho thấy:

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển có mối quan hệ biện chứng với nhau, vì nhờ có mối liên hệ thì sự vật mới có sự vận động và phát triển.

Cần phân biệt khái niệm vận động với khái niệm phát triển. Vận động là mọi biến đổi nói chung, con người phát triển là sự vận động có khuynh hướng và gắn liền với sự ra đời của cái mới hợp quy luật.

2. Nội dung và tính chất của sự phát triển

– Phát triển là thuộc tính vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, là khuynh hướng chung của thế giới. – Sự phát triển có tính chất tiến lên, kế thừa liên tục. – Sự phát triển thường diễn ra quanh co, phức tạp, phải trải qua những khâu trung gian, thậm chí có lúc, có sự thụt lùi tạm thời. – Phát triển là sự thay đổi về chất của sự vật. Nguồn gốc của sự phát triển là do sự đấu tranh của các mặt đối lập trong bản thân sự vật.

Xem tiếp: Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

3. Phân biệt quan điểm biện chứng và siêu hình về sự phát triển

– Quan điểm biện chứng xem sự phát triển là một quá trình vận động tiến lên thông qua những bước nhảy vọt về chất. Nguồn gốc của sự phát triển là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập ở trong sự vật. – Quan điểm siêu hình nói chung là phủ định sự phát triển, vì họ thường tuyệt đối hoá mặt ổn định của sự vật, hiện tượng. Sau này, khi khoa học đã chứng minh cho quan điểm về sự phát triển của sự vật, buộc họ phải nói đến sự phát triển, song với họ phát triển chỉ là sự tăng hay giảm đơn thuần về lượng không có sự thay đổi về chất và nguồn gốc của nó ở bên ngoài sự vật, hiện tượng.

4. Ý nghĩa phương pháp luận

– Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm phát triển.

– Quan điểm phát triển đòi hỏi khi nhận thức, khi giải quyết một vấn đề nào đó con người phải đặt chúng ở trạng thái động, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển.

– Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.

– Bạn đã nắm vững kiến thức: Điều kiện ra đời, tồn tại của sản xuất hàng hoá.

– Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống của con người.

– Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.

– Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử – cụ thể, quan điểm phát triển góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân con người. Song để thực hiện được chúng, mỗi người cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng – nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo trong hoạt động của mình.

III. Ý nghĩa phương pháp luật của việc nắm vững hai nguyên lý này

Nguyên lý về liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức sự vật cần phải có quan điểm toàn diện. Với quan điểm này, khi nghiên cứu sự vật, phải xem xét tất cả các mối liên hệ của bản thận sự vật và với các sự vật và hiện tượng khác.

Tóm lại: Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, lịch sự cụ thể và phát triển. Với cách xem xét, nghiên cứu theo quan điểm toàn diện và phát triển sẽ giúp ta hiểu được bản chất sự vật, làm cho nhận thức phản ánh đúng đắn về sự vật và hoạt động thực tiễn có hiệu quả cao.

Những Nội Dung Cơ Bản Của Phép Biện Chứng Duy Vật

Trong bài viết này cùng với tiểu luận triết học của chúng tôi sẽ là bài nghiên cứu sau đây

A1. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến

Khái niệm liên hệ:

A2. Nguyên lí về sự phát triển

“Phát triển” là quá trình vận động từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn. Phát triển là vận động nhưng chỉ vận động nào theo khuynh hướng đi lên thì mới là phát triển. Vận động diễn ra trong không gian và thời gian, nếu thoát ly chúng thì không thể có phát triển. Do vậy, ở phương Tây trước Kant chưa có quan niệm về phát triển, vì trước đó người ta mới chỉ suy tư về không gian mà chưa suy tư gì về thời gian. Còn ở phương Đông với văn hóa coi trọng truyền thống, mà Nho giáo là điển hình, thì quan niệm phát triển không hẳn hướng về tương lai mà thường hướng về quá khứ. Một xã hội lí tưởng không phải là xã hội sẽ có mà là đã có. Như vậy, nếu người phương Tây xem vật chất vận động trong thời gian tuần hoàn. Xét từ cách tiếp cận phương Tây thì phương Đông không có khái niệm “phát triển”, mà chỉ có khái niệm “tăng trưởng”. Bởi lẽ, tăng trưởng là sự mở rộng ngưỡng về số lượng, quy mô theo hướng tích cực, nhưng không đi kèm biến đổi về chất, về cấu trúc. Như đã biết, vận động tuyệt đối và đứng yên tương đối là những thuộc tính cố hữu của các đối tượng vật chất. Vốn là sự thống nhất của bền vững và biến đổi, đối tượng không tồn tại vĩnh hằng. Những biến đổi diễn ra trong nó ở phạm vi một độ bền vững xác định có xu hướng phá vỡ sự bền vững đó và biến nó thành đối tượng khác, rồi đến lượt mình, do những biến đổi diễn ra ở mức độ tích lũy cao hơn, nó lại biến thành đối tượng thứ ba, và cứ thế mãi khiến cho vật chất, trong khi vận động, biến đổi thường xuyên, lại chuyển hóa không ngừng từ trạng thái bền này sang trạng thái bền khác. Nhưng xu hướng của những biến đổi đó là gì, cái gì nảy sinh thay thế các đối tượng đã bị hủy hoại? Một số nhà triết học cho là, vận động diễn ra theo vòng tròn, đời đời lặp lại vẫn những chu kì như cũ; một số khác lại khẳng định rằng, trong tiến trình những biến đổi thường xuyên lại diễn ra sự vận động từ cao xuống thấp, tức là thoái bộ; số thứ ba, ngược lại, giải thích toàn bộ những thay đổi diễn ra trong thế giới bằng sự vận động từ thấp đến cao. Thực tế thì có cả vận động từ thấp đến cao và từ cao xuống thấp, và vận động từ thấp tới cao, đi lên, là xu hướng hàng đầu trong số chúng; chính nó là thuộc tính căn bản cố hữu nội tại của vật chất. Tóm lại, sự vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản tới phức tạp, được gọi là phát triển. Ăngghen cho rằng phát triển là “mối liên hệ nhân quả của sự vận động tiến lên từ thấp đến cao thông qua tất cả những sự vận động chữ chi và những bước thụt lùi tạm thời…” Tính khách quan của sự phát triển Trước khi phép biện chứng duy vật ra đời, Hegel (Hêghen) đã không chỉ nêu ra khái niệm phát triển mà còn xây dựng phép biện chứng khá hoàn chỉnh bao gồm các nguyên lí, phạm trù, quy luật về sự phát triển. Sau này, chính Mác, Ăngghen và Lênin đều coi phép biện chứng của Hegel (Hêghen) là học thuyết toàn diện, sâu sắc, phong phú nhất về sự phát triển. Nhưng, vì Hegel (Hêghen) đã xây dựng phép biện chứng trên cơ sở duy tâm nên Mác, Ăngghen đã đặt ra nhiệm vụ đưa phép biện chứng thoát khỏi cái vỏ thần bí duy tâm, biến nó thành phép biện chứng duy vật, xây dựng khoa học chung nhất về sự phát triển của tự nhiên, của xã hội và của tư duy con người. Phát triển là công việc ở “dưới đất” chứ không phải là của “ý niệm tuyệt đối”, càng không phải là công việc của Thượng đế. Những tài liệu khoa học xưa nay đều chứng tỏ đầy thuyết phục về xu hướng vận động phức tạp khách quan (được gọi là phát triển) đó trong hiện thực. Chẳng hạn, ánh sáng phát ra từ các thiên thể biến thành các hạt chất, mà khi tích lũy ở số lượng lớn, đã tạo thành nguyên tử, sau đó thành phân tử của các chất xác định. Do tương tác mà các hạt vật chất này nóng lên, đậm đặc lại và ở thời điểm xác định đã tạo ra các hành tinh. Trong số đó, có những hạt do nảy sinh các điều kiện thuận lợi phù hợp (ví dụ trên Trái đất), mà các hợp chất hữu cơ phức tạp dần được tạo thành, và trong tiến trình tiếp theo (với những điều kiện đặc biệt) có khả năng biến chuyển thành các cơ thể sống. Sau khi xuất hiện, các sinh thể tiếp tục vận động và tương tác với môi trường rồi dần trở nên hoàn thiện, biến chuyển từ những “thể” chất sống giản đơn dưới mức tế bào, đến các cơ thể đơn bào, rồi từ thể đơn bào đơn giản nhất đến các thể đa bào, từ các sinh thể chỉ có thuộc tính phản xạ đến những sinh thể có thần kinh – tâm lí. Sự vận động từ thấp đến cao còn biểu hiện rõ trong lịch sử xã hội. Nhân loại đã bắt đầu tồn tại từ hình thái đơn giản như xã hội nguyên thủy, sau đó chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, và cuối cùng là xã hội chủ nghĩa, mỗi lần đều chuyển sang kiểu đời sống xã hội mới cao hơn, hoàn thiện hơn. Trong xã hội con người vừa là khách thể, vừa là chủ thể của phát triển chủ yếu bằng thực tiễn sản xuất. Cho nên kinh tế luôn là cơ sở của phát triển xã hội. Học thuyết duy vật biện chứng về phát triển xã hội có nội dung chủ yếu là sự chuyển hóa từ hình thái kinh tế – xã hội thấp lên cao hơn, tiến bộ hơn; từ nền văn minh trình độ thấp lên nền văn minh trình độ cao hơn. Điều nói trên cũng đồng thời khẳng định phát triển là xu hướng phổ biến trong thế giới, cố hữu của vật chất. Song điều đó không có nghĩa là từng hình thức tồn tại cụ thể của vật chất, mỗi đối tượng riêng rẽ đều luôn phát triển. Bên cạnh những đối tượng phát triển, biến đổi từ thấp đến cao, thì vẫn có những đối tượng vận động vòng tròn, chuyển từ một trạng thái này sang trạng thái khác trong phạm vi của một giai đoạn phát triển, hoặc lại biến đổi từ cao xuống thấp. Vai trò hàng đầu của phát triển, tính phổ biến của nó biểu hiện không phải ở chỗ, tất cả các đối tượng nhất định phải phát triển, mà ở chỗ, chúng có khả năng phức tạp hóa, chuyển từ thấp lên cao khi có điều kiện tương ứng. Nơi nào đã có những điều kiện như thế nhất định sẽ có vận động từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp; nơi nào còn thiếu những điều kiện đó thì sẽ chỉ có hoặc là sự vận động theo vòng tròn (sự thay đổi ở cùng cấp độ), hoặc là những biến đổi thụt lùi. Vả lại, những đối tượng đang vận động theo vòng tròn hay thụt lùi, cũng không mất khả năng chuyển từ thấp đến cao ngay khi điều kiện thuận lợi cho điều đó. Phát triển là quá trình đa dạngxzr Chỉ có thông qua một quá trình nhất định thì tất cả các đối tượng mới có thể thực hiện được sự phát triển. Mọi đối tượng tự nhiên, xã hội và tư duy đều trải qua quá trình phát triển, mà nếu xét từ hình thức thì đó là quá trình thay thế liên tục của đối tượng theo thời gian và tính chất không ngừng mở rộng về không gian; còn xét từ nội dung thì đó là sự đổi mới hình thức vận động, hình thái, kết cấu, chức năng và mối quan hệ của đối tượng. Sự phát triển của xã hội loài người thể hiện rõ nhất tính quá trình đó. Từ xã hội nguyên thủy đến xã hội chiếm hữu nô lệ, đến xã hội phong kiến, và xã hội tư sản rồi tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa. Điều đó biểu hiện xu thế phát triển chung của xã hội loài người. Như Việt Nam đang ở vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là quá trình xây dựng lâu dài để hướng tới chủ nghĩa cộng sản. Đây là một xu thế lịch sử không thể thay đổi bằng ý chí. Cần phân biệt hai khái niệm gắn với phát triển là tiến hóa và tiến bộ. Tiến hóa là một dạng của phát triển, diễn ra theo cách từ từ, và thường là sự biến đổi hình thức của tồn tại xã hội từ đơn giản đến phức tạp. Thuyết tiến hóa tập trung giải thích khả năng sống sót và thích ứng của cơ thể xã hội trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Trong khi đó, khái niệm tiến bộ đề cập đến sự phát triển có giá trị tích cực. Tiến bộ là một quá trình biến đổi hướng tới cải thiện thực trạng xã hội từ chỗ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn so với thời điểm ban đầu. Trong tiến bộ, khái niệm phát triển đã được lượng hóa thành tiêu chí cụ thể đánh giá mức độ trưởng thành của các dân tộc, các lĩnh vực của đời sống con người… Từ quan niệm, phát triển là sự vận động theo chiều hướng đi lên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã vạch rõ, thực chất của phát triển là sự phát sinh đối tượng mới phù hợp với quy luật tiến hóa và sự diệt vong của đối tượng cũ đã trở nên lỗi thời. Đối tượng mới chỉ là cái phù hợp với khuynh hướng tiến bộ của lịch sử, có tiền đồ rộng lớn; đối tượng cũ là cái đã mất vai trò tất yếu lịch sử, ngày càng đi vào xu hướng diệt vong. Không gì có thể chiến thắng được đối tượng mới, bởi vì: Một là, xét từ mối quan hệ giữa đối tượng mới và hoàn cảnh thì, nó sở dĩ là mới vì kết cấu và chức năng của nó thích ứng với điều kiện mới đã biến đổi; đối tượng cũ lại chỉ gồm các loại yếu tố và chức năng không còn phù hợp với hoàn cảnh đã biến đổi, xu thế diệt vong của nó là không thể cứu vãn được. Hai là, xét mối quan hệ giữa đối tượng cũ và đối tượng mới thì đối tượng mới là cái đã manh nha nảy mầm từ trong lòng đối tượng cũ, nó là cái phủ định những tiêu cực mục nát trong đối tượng cũ đồng thời lại bảo lưu được những cái hợp lí, thích hợp với điều kiện mới và bổ sung nội dung mới vốn chưa có ở đối tượng cũ. Hai phương diện đó là nguyên nhân có sức mạnh to lớn làm cho đối tượng mới về bản chất có thể vượt qua đối tượng cũ. Trong lĩnh vực lịch sử xã hội, đối tượng mới là kết quả của hoạt động sáng tạo theo hướng tiên tiến của xã hội; về cơ bản nó phù hợp với lợi ích và nhu cầu của đông đảo nhân dân, có khả năng bảo vệ được họ, do vậy nó tất yếu chiến thắng đối tượng cũ. Đặc biệt là trong thời kì diễn ra những biến động xã hội lớn, sự chiến thắng của đối tượng mới trước đối tượng cũ biểu hiện rất rõ. Nắm vững quy luật này là điều có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự sáng tạo và phát triển của nước ta trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.

2. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật

2.1. Quan niệm biện chứng duy vật về phạm trù và sự hình thành phạm trù

2.2. Cái chung và cái riêng

2.4. Tất nhiên và ngẫu nhiên

Quan niệm về tất nhiên được hình thành trên cơ sở làm rõ liên hệ nhân quả. Đầu tiên tất nhiên được xem như một đặc trưng của liên hệ nhân quả. Dần dần con người đã nhận ra, tất nhiên vốn có không chỉ ở liên hệ nhân quả, mà còn ở các mối liên hệ khác (như chức năng, cấu trúc…), và cũng không chỉ ở các mối liên hệ, mà còn ở sự tồn tại của các đối tượng và thuộc tính. Khái niệm tất nhiên tách ra khỏi khái niệm nhân quả, có tính độc lập và được xét không cùng cặp với nhân quả, mà với ngẫu nhiên. Sự xuất hiện và tồn tại của đối tượng cùng với các bộ phận, thuộc tính và những mối liên hệ có nguyên nhân trong chính mình và do bản chất nội tại của chúng quy định, được gọi là tất nhiên. Còn sự xuất hiện và tồn tại có nguyên nhân bên ngoài, ở cái khác, tức do ngoại cảnh quy định,được gọi là ngẫu nhiên. Những thuộc tính và liên hệ tất nhiên ở những điều kiện tương ứng tất yếu phải nảy sinh, còn sự xuất hiện của các thuộc tính và liên hệ ngẫu nhiêu không nhất thiết, chúng có thể có mà cũng có thể không. Trong hiện thực khách quan, không có tất nhiên thuần túy, tồn tại cô lập, mà nó liên hệ hữu cơ với ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên cũng tồn tại khách quan, bên ngoài và không phụ thuộc ý thức cũng như hoạt động nhận thức của con người. Sự tồn tại khách quan của cả tất nhiên lẫn ngẫu nhiên đều có nguồn gốc từ tính nhân quả. Nếu cơ sở của tất nhiên là một mối liên hệ nhân quả tuyến tính duy nhất, thì cơ sở của ngẫu nhiên là sự giao thoa của hai (hay một số) liên hệ nhân quả. Các mắt xích của từng dãy gắn với nhau một cách tất yếu, nhưng sự giao thoa của chúng lại tạo ra những nguyên nhân mới, làm xuất hiện những tương tác không bắt nguồn từ bản chất nội tại của các đối tượng tham gia tương tác khiến sinh ra các đối tượng ngẫu nhiên. Tuy là ngẫu nhiên nhưng những tương tác này cũng tất yếu gây ra những biến đổi. Như vậy, tất nhiên và ngẫu nhiên gắn bó hữu cơ, tương tác với nhau, rồi chuyển hóa vào nhau, quy định sự xuất hiện những đối tượng và trạng thái chất mới. Tính quy luật của mối liên hệ tất nhiên và ngẫu nhiên Từng đối tượng trong cùng thời gian vừa là tất nhiên, vừa là ngẫu nhiên. Một số thuộc tính và mối liên hệ của nó do những nguyên nhân bên trong quy định, thể hiện bản chất, một số thuộc tính và mối liên hệ khác của do các nguyên nhân bên ngoài, do sự tương tác của nó với môi trường xung quanh. Các số khác này ngẫu nhiên có mặt, do vậy chỉ là hình thức thể hiện của các thuộc tính và mối liên hệ tất nhiên. Tất nhiên mở đường đi cho mình thông qua vô vàn những ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên thường biểu hiện như là các xu hướng của tất nhiên, chúng mang vào quá trình cụ thể những phương án mới không là tất nhiên, mà do những hoàn cảnh bên ngoài quy định. Do vậy, hoạt động thực tiễn không thể hướng vào ngẫu nhiên, mà phải dựa vào cái tất nhiên. Còn trong nhận thức, việc nắm bắt cái tất nhiên là nhiệm vụ cơ bản của khoa học, nhưng vì cái tất nhiên thường biểu hiện thông qua nhiều cái ngẫu nhiên, khiến cho ngẫu nhiên trở thành hình thức của tất nhiên, nên nhận thức nó cần thông qua nghiên cứu cái ngẫu nhiên, vạch ra trong ngẫu nhiên những xu hướng tất nhiên. Là hình thức biểu hiện của tất nhiên, ngẫu nhiên còn là sự bổ sung cho cái tất nhiên, bởi lẽ nội dung của cái tất nhiên không chỉ gồm bản chất đặc thù của đối tượng, mà còn có những điểm đặc thù của đối tượng khác tương tác với nó. Không chỉ lệ thuộc và liên hệ với nhau, trong tiến trình vận động của đối tượng, mà chúng luôn chuyển hóa, thay đổi vị trí cho nhau, ngẫu nhiên trở thành tất nhiên, và ngược lại. Sự chuyển hóa này thể hiện rõ qua ví dụ về sự phát triển các loài sinh vật, và phần nào trong xã hội loài người.

Việc nhận thức những mối liên hệ nhân quả tất nhiên mới buộc phải làm sáng tỏ tổ chức của những mối liên hệ đó. Cùng với việc tích lũy tri thức về đối tượng như là chỉnh thể các bộ phận tương tác liên hệ với nhau, con người cần xây dựng các phạm trù tương ứng là nội dung và hình thức. Nội dung của đối tượng là tổng thể các bộ phận, yếu tố hợp thành nó, những tương tác và biến đổi trong nó. Nội dung không chỉ bao gồm các bộ phận và sự tương tác của chúng với nhau, tức là những tương tác bên trong, mà còn quy định cả những tương tác với những đối tượng bên ngoài khác. Chẳng hạn, nội dung của phương thức sản xuất gồm hai bộ phận là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất mà trong sự thống nhất với nhau chúng cùng quy định đời sống xã hội, chính trị và tinh thần của con người – là những yếu tố nằm ngoài phương thức sản xuất. Hình thức của đối tượng là cách thức tổ chức, sắp xếp, liên hệ các bộ phận của nó. Hình thức của phương thức sản xuất là mối liên hệ được thể hiện trong quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Hình thức của tác phẩm nghệ thuật – trước hết là sự phối cảnh, tình tiết và ngôn ngữ… Mọi đối tượng đều luôn có cả nội dung lẫn hình thức. Không ở đâu và không khí nào lại có nội dung thiếu hình thức và hình thức phi nội dung. Trong khi liên hệ hữu cơ với nhau nội dung và hình thức là những mặt đối lập của đối tượng. Biến đổi là xu hướng chủ đạo của nội dung. Còn bền vững lại là xu hướng chủ đạo của hình thức.Mối liên hệ giữa nội dung và hình thức Vì mỗi bộ phận, thuộc tính của đối tượng tất yếu phải có những mối liên hệ với nhau, cho nên, nội dung đã bao chứa cả hình thức. Mặt khác, sự tổ chức các mối liên hệ bền vững đồng thời là sự tổ chức các bộ phận. Do vậy, có thể nói, cả hình thức cũng chứa nội dung, và ngay cả trong tư duy, trong sự trừu tượng cũng không thể tách biệt hoàn toàn hình thức khỏi nội dung và ngược lại. Nội dung và hình thức thống nhất với nhau, nhưng chúng có ý nghĩa không như nhau. Nội dung giữ vai trò quyết định, còn hình thức – bị quyết định. Bản thân sự xuất hiện của hình thức và nhiều đặc điểm của nó bị quy định bởi nội dung. Nhưng hình thức có tính tự trị nhất định, tính độc lập tương đối so với nội dung, và cũng tác động lên nó. Sự tác động thường theo hai kiểu. Thứ nhất, hình thức có thể đẩy nội dung phát triển nhanh, khi nó về cơ bản phù hợp với nội dung. Thứ hai, hình thức có thể làm chậm tốc độ phát triển của nội dung, nếu không còn phù hợp với nó. Ở thời kì đầu tồn tại, hình thức của đối tượng phù hợp với nội dung và do vậy giữ vai trò tích cực trong sự phát triển của nó. Với sự hỗ trợ tích cực của hình thức, nội dung phát triển càng ngày càng xa, còn hình thức về cơ bản vẫn giữ nguyên không đổi. Thời gian qua đi và khuôn khổ chật hẹp của hình thức cũ bắt đầu cản trở nội dung đang biến đổi. Hình thức không còn phù hợp với nội dung nữa, trở nên kìm hãm sự phát triển của nội dung. Sự không tương thích ngày càng lớn dần, giữa chúng xảy ra xung đột. Và cuối cùng nội dung đã đi xa về phía trước vứt bỏ hình thức quá cũ kĩ, thủ tiêu nó. Nhưng thời điểm thủ tiêu hình thức đồng thời cũng là thời điểm biến đổi của nội dung. Sự thủ tiêu những mối liên hệ bền vững đòi hỏi sự biến đổi mạnh các bộ phận của nó và chấm dứt những tương tác lẫn nhau đã tồn tại trước đó. Như vậy, sự phù hợp hình thức và nội dung, sự thống nhất của chúng, cũng như thống nhất chất và lượng, là ranh giới tồn tại của đối tượng. Từ mối quan hệ giữa nội dung và hình thức có thể rút ra kết luận cho thực tiễn. Vì nội dung quyết định hình thức, nên để làm đối tượng biến đổi theo mục đích thì cần gây ra những biến đổi chủ yếu trong nội dung của nó. Vì hình thức chỉ thúc đẩy sự phát triển của nội dung khi phù hợp với nó nên nếu muốn tác động đẩy nhanh sự phát triển của đối tượng, tất yếu phải thường xuyên theo dõi nội dung đang phát triển trong một hình thức tụt hậu, thấy được mức độ xuất hiện sự không tương thích giữa chúng để can thiệp vào tiến trình khách quan, tạo ra những thay đổi tất yếu trong hình thức, làm cho nó trở lại tương thích với nội dung đang phát triển và đảm bảo không cản trở sự phát triển tiếp theo. Việc bỏ qua quy luật đó dẫn đến những hậu quả xấu trong thực tiễn. Thói trì trệ, chậm đổi mới các hình thức và phương pháp quản lí, sự gia tăng tệ quan liệu, tuyệt đối hóa những hình thức tổ chức xã hội được hình thành trước đây trong thực tiễn là một trong những nguyên nhân chính của tình trạng khủng hoảng xã hội và của những xu hướng bất lợi đã bộc lộ ở nước ta những năm gần đây. Xã hội có đạt tới sự phát triển mới về chất hay không phần nhiều phụ thuộc vào việc đổi mới đến đâu những hình thức xã hội già cõi, phong cách và phương pháp làm việc cũ, đưa chúng vào phù hợp đến mức độ nào với những điều kiện đang thay đổi.

2.7. Bản chất và hiện tượng

Khi đã tích lũy các tri thức về thuộc tính và liên hệ tất nhiên riêng rẽ của đối tượng, khám phá những quy luật vận hành và phát triển của nó, thì cũng sẽ xuất hiện nhu cầu kết hợp các tri thức, đưa chúng về một mối. Giai đoạn phát triển này của nhận thức ứng với sự tái tạo lại bản chất như là tổng thể các thuộc tính và các mối liên hệ (quy luật) tất nhiên của đối tượng. Vì bản chất là chỉnh thể được phân tách ra thành tập hợp các mặt liên hệ lẫn nhau, các quan hệ phản ánh cái tất nhiên ở dạng thuần túy, nên nhận thức chỉ có thể tái tạo lại nó thông qua các mô hình tư tưởng, các khái niệm, qua việc xây dựng lí luận. Như vậy, phạm trù bản chất phản ánh cái bên trong, cái tất nhiên của đối tượng. Bản chất là tổng thể tất cả các thuộc tính và mối liên hệ tất nhiên được xét trong sự phụ thuộc lẫn nhau tự nhiên của chúng, các quy luật vận hành và phát triển của đối tượng. Bản chất xuất hiện, định hình và phát triển cùng với hiện tượng là phạm trù chỉ sự bộc lộ cái bên trong của đối tượng ra mặt ngoài, thông qua vô vàn các thuộc tính và mối liên hệ ngẫu nhiêu được vạch ra do kết quả tương tác của nó với các đối tượng khác. Hiện tượng là những biểu hiện bề ngoài của các mặt và mối liên hệ. Mối liên hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng. Bản chất của đối tượng mang tính khách quan, tồn tại không phụ thuộc vào ý thức con người. Trong khi tồn tại thực, nó gắn bó hữu cơ với hiện tượng, chỉ lộ rõ mình trong và thông qua hiện tượng. Hiện tượng cũng gắn liền với bản chất, không thể tồn tại thiếu nó. Lênin nhấn mạnh mối liên hệ đó như sau: “Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính bản chất”. Là hình thức biểu hiện của bản chất, hiện tượng khác với nó: nhiều khi bản chất hiện ra dưới dạng xuyên tạc như trường hợp giá trị của hàng hóa chẳng hạn. Hiện tượng luôn phong phú hơn bản chất. Điều này thể hiện rõ qua ví dụ về tương quan giữa giá trị và giá cả của hàng hóa. Giá cả của hàng hóa luôn đa dạng (phong phú) hơn giá trị của nó, bởi lẽ trong chúng không chỉ biểu hiện sự phụ thuộc vào lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất một đơn vị hàng hóa, mà còn vào nhiều yếu tố bên ngoài, như tương quan cung cầu, yếu tố đầu cơ hàng hóa đó trên thị trường. Ngược với hiện tượng thường đa dạng và hay biến đổi, thì bản chất lại là cái bền vững, tự bảo toàn trong phần lớn các biến đổi đó. Chẳng hạn, giá cả hàng hóa thường xuyên biến động, nhưng giá trị của nó ở khoảng thời gian nhất định thường không đổi. Thể hiện tính quy luật đó của mối tương quan bản chất và hiện tượng, Lênin viết: “… cái không bản chất, cái bề ngoài, cái trên mặt, thường biến mất, không bám “chắc”, không “ngồi vững” bằng “bản chất”. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là bản chất hoàn toàn không đổi. Sự thay đổi của nó chậm hơn ở hiện tượng. Nó biến đổi do, trong quá trình phát triển của đối tượng một số mặt và mối liên hệ tất nhiên bắt đầu tăng cường, giữ vai trò lớn hơn, những số khác lại bị đẩy xuống hàng dưới hoặc biến mất hẳn. Lênin viết: “Không phải chỉ riêng hiện tượng là tạm thời, chuyển động, lưu động, bị tách rời bởi những giới hạn chỉ có tính chất ước lệ, mà bản chất của sự vật cũng như thế. Tính quy luật của nhận thức bản chất Vì bản chất chỉ thể hiện thông qua hiện tượng và hiện tượng biểu thị nó dưới dạng cải biến, và thường là bị xuyên tạc, cho nên, thứ nhất, trong nhận thức không chỉ tự giới hạn ở việc ghi nhận cái nằm trên bề mặt đối tượng, mà cần phải thâm nhập vào bên trong đối tượng và phải nhìn ra bản chất thực khuất sau hiện tượng; thứ hai, hoạt động thực tiễn cũng không thể xuất phát từ những hiện tượng riêng, mà trước hết cần phải làm theo tri thức về bản chất, các quy luật vận hành và phát triển của đối tượng.

3. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật

3.1. Quan niệm biện chứng duy vật về quy luật

3.2. Quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại

3.3. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập

Bài 1. Thế Giới Quan Duy Vật Và Phương Pháp Luận Biện Chứng

Thế giới quan duy vật và Phương pháp luận biện chứng BÀI 12016 – 2017GDCD 10NỘI DUNG1. Thế giới quan và phương pháp luậna) Vai trò TGQ & PPL của Triết học?THẾ GiỚI LÀ GÌ?Sóng thầnMưa bãoGió Đấu tranh giai cấpHãy lấy ví dụ về đối tượng nghiên cứu của các môn khoa học tự nhiên và khoa học xã hội?TRIẾT HỌC LÀ GÌ? Triết học là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó.PLATON & ARISTOSTRIẾT HỌC ra đời từ thời cổ đạiĐối tượng nghiên cứu của TRIẾT HỌC?

Đối tượng nghiên cứu của Triết học: Là những quy luật chung nhất, phổ biến nhất về sự vận động và phát triển của giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy.Vai trò của TRIẾT HỌC? Triết học có vai trò là thế giới quan, phương pháp luận chung cho mọi hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người.

Thế giới quan và phương pháp luậnb) Thế giới quan duy vật & thế giới quan duy tâm? Trong cuộc sống người ta luôn đặt ra muôn vàn câu hỏi và tìm lời giải đáp cho mình. Từ đó hình thành nên thế giới quan. Vậy thế giới quan là gì?

Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm và niềm tin định hướng hoạt động của con người trong cuộc sống.Thế giới quan?Mẫu chuyện Nhìn thấy một cánh rừng bát ngát trên màn hình vô tuyến, kẻ lâm tặc ngay lập tức nảy sinh ý nghĩ làm thế nào để chặt trộm được gỗ quý trong rừng đem đi bán lấy tiền, còn người yêu thiên nhiên và quan tâm đến môi trường sinh thái lại lo lắng làm sao để bảo vệ được cánh rừng ấy. Khi nhìn thấy rừng tên lâm tặc đã nảy sinh ý nghĩ gì? Ý nghĩ ấy có thuộc ý thức hay không?Lâm tặc chặt phá rừngÝ nghĩ đó thuộc ý thức của hắn Bất kỳ một loại thế giới quan nào cũng đều tập trung giải quyết các vấn đề sau đây: thế giới này là gì? Thế giới này do đâu mà có? thế giới này rồi sẽ đi về đâu? Con người có nguồn gốc từ đâu? Con người rồi sẽ đi về đâu? …việc giải quyết những câu hỏi này đã hình thành nên vấn đề cơ bản của triết họcThế giới này từ đâu mà có?Con người có nguồn gốc từ đâu?

Dựa vào cách giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của Triết học mà chia thành thế giới quan duy vật hay thế giới quan duy tâm Thế giới quan duy vật cho rằng: Giữa vật chất và ý thức thì vật chất là cái có trước, cái quyết định ý thức, Thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người, không do ai sáng tạo ra và không ai tiêu diệt được Thế giới quan duy tâm cho rằng: ý thức là cái có trước và là cái sản sinh ra giới tự nhiênThế giới quan duy vậtVí dụ:Thế giới quan duy tâmVí dụ:

Thế giới quan và phương pháp luậnc) Phương pháp luận biện chứng & phương pháp luận siêu hình:Tại sao trong cùng một lớp học, cùng một môi trường học tập giống nhau, cùng một giáo viên giảng dạy có bạnhọc tốt, có bạn lại học không tốt?Bởi vì mỗi người đều có phương pháp học tập và sắp xếp thời gian hợp lýĐể đạt được mục đích, mỗi người có một cách thức riêngĐó chính là phương pháp Phương pháp là cách thức, con đường để đạt được mục tiêu đề raPhương pháp luận:

là học thuyết về phương pháp nhận thức khoa học và cải tạo thế giớiTrong lịch sử triết học phương pháp luận có mấy loạiPhương pháp luận Phương pháp luận biện chứng Phương pháp luận siêu hình Phương pháp luận biện chứngPPL biện chứng Là PP xem xét sự vật, hiện tượng trong sự ràng buộc lẫn nhau, giữa chúng có sự vận động và phát triển không ngừngVÍ DỤ VỀ PPL BIỆN CHỨNG“NƯỚC CHẢY ĐÁ MÒN”“TRỜI CÓ 4 MÙA: XUÂN, HẠ, THU, ĐÔNG”Hãy chỉ ra yếu tố phát triển của sự vật hiện tượng con gà sinh ra quả trứng?TrứngGà conGà trưởng thànhGà đẻ trứngPPL siêu hình Là PP xem xét sự vật, hiện tượng một cách phiến diện, chỉ thấy chúng tồn tại trong trạng thái cô lập, không vận động, không phát triển, áp dụng một cách máy móc đặc tính của sự vật này với sự vật khácVÍ DỤ VỀ PPL SIÊU HÌNH

Chuyện “Thầy bói xem voi”Có thầy cho rằng con voi Sun sun như con đỉa

Có thầy cho rằng con voi Chần chẫn như cái đòn càn

Có thầy cho rằng con voi Bè bè như cái quạt thóc

Có thầy cho rằng con voi Sừng sững như cái cột đình

Có thầy cho rằng con voi Tun tủn như cái chổi sể cùn Qua câu chuyện này muốn khuyên chúng ta điều gì?Các thầy đã nhìn nhận sự vật một cách phiến diện, áp dụng một cách máy móc đặc trưng của sự vật này lên đặc trưng sự vật khác. Con voi cũng có giống con đỉa…và tạo nên đặc tính của con voi chứ không phải con voi là con đỉa.KẾT LUẬN: Phương pháp luận biện chứng và phương pháp luận siêu hình?

2. Chủ nghĩa duy vật biện chứng – sự thống nhất hữu cơ giữa TGQDV & PPLBCSơ đồ so sánh thế giới quan và phương pháp luận theo thời gianTrong Triết học Mác, TGQ DV và PPL BC thống nhất hữu cơ với nhau. Thế giới vật chất là cái có trước, phép biện chứng là cái có sau.

TGQ DV và PPL BC gắn bó với nhau, không tách rời nhau.KẾT LUẬNCủng cố bàiVẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌCMẶT THỨ NHẤT: VC có trước hay YT có trước.VC quyết định YT Hay ngược lạiMẶT THỨ HAI:Con người có nhận thức được thế giới không?YT có trước, VC có sau, YT q.định VC

VC có trước, YT có sau, VC q.định YTCon người nhận thức được thế giới