Top 13 # Xem Nhiều Nhất Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Định Tính Mới Nhất 5/2023 # Top Like | Cuocthitainang2010.com

Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Và Phương Pháp Luận Nghiên Cứu Khoa Học

Khái niệm

Trước hết để hiểu được thế nào là phương pháp nghiên cứu khoa học, các khái niệm, các đặc điểm của phương pháp nghiên cứu khoa học, chúng ta cần phải hiểu được khái niệm khoa học là gì?

Khoa học là một khái niệm có nội hàm phức tạp, tùy theo mục đích nghiên cứu và cách tiếp cận ta có thể phân tích ở nhiều khía cạnh khác nhau. ở mức độ chung nhất, khoa học được hiểu như sau: Khoa học là hệ thống tri thức được rút ra từ hoạt động thực tiễn và được chứng minh, khẳng định bằng các phương pháp nghiên cứu khoa học.

Phương pháp không chỉ là vấn đề lý luận mà còn là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn to lớn, bởi vì chính phương pháp góp phần quyết định thành công của mọi quá trình nghiên cứu khoa học. Phương pháp là công cụ, giải pháp, cách thức, thủ pháp, con đường, bí quyết, quy trình công nghệ để chúng ta thực hiện công việc nghiên cứu khoa học. Bản chất của nghiên cứu khoa học là từ những hiện tượng chúng ta cảm nhận được để tìm ra các quy luật của các hiện tượng đó. Nhưng bản chất bao giờ cũng nằm sâu trong nhiều tầng hiện tượng, vì vậy để nhận ra được bản chất nằm sâu trong nhiều tầng hiện tượng và nhận ra được quy luật vận động của chúng đòi hỏi chúng ta phải có phương pháp nghiên cứu khoa học. Như vậy phương pháp chính là sản phẩm của sự nhận thức đúng quy luật của đối tượng nghiên cứu. Đến lượt mình, phương pháp là công cụ có hiệu quả để tiếp tục nhận thức sâu hơn và cải tạo tốt hơn đối tượng đó. Trong thực tế cuộc sống của chúng ta người thành công là người biết sử dụng phương pháp.

Như vậy, bản chất của phương pháp nghiên cứu khoa học chính là việc con người sử dụng một cách có ý thức các quy luật vận động của đối tượng nhưmột phương tiện để khám phá chính đối tượng đó. Phương pháp nghiên cứu chính là con đường dẫn nhà khoa học đạt tới mục đích sáng tạo.

Đặc điểm của phương pháp nghiên cứu khoa học

Phương pháp bao giờ cũng là cách làm việc của chủ thể nhằm vào các đối tượng cụ thể, ở đây có hai điều chú ý là: chủ thể và đối tượng.

Phương pháp là cách làm việc của chủ thể, cho nên nó gắn chặt với chủ thể và như vậy phương pháp có mặt chủ quan. Mặt chủ quan của phương pháp chính là năng lực nhận thức, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo của chủ thể, thể hiện trong việc ý thức được các quy luật vận động của đối tượng và sử dụng chúng để khám phá chính đối tượng.

Phương pháp là cách làm việc của chủ thể và bao giờ cũng xuất phát từ đặc điểm của đối tượng, phương pháp gắn chặt với đối tượng, và như vậy phương pháp có mặt khách quan. Mặt khách quan quy định việc chọn cách này hay cách kia trong hoạt động của chủ thể. Đặc điểm của đối tượng chỉ dẫn cách chọn phương pháp làm việc, Trong nghiên cứu khoa học cái chủ quan phải tuân thủ cái khách quan. Các quy luật khách quan tự chúng chưa phải là phương pháp, nhưng nhờ có chúng mà ta phát hiện ra phương pháp. Ý thức về sự sáng tạo của con người phải tiếp cận được các quy luật khách quan của thế giới.

Phương pháp có tính mục đích vì hoạt động của con người đều có mục đích, mục đích nghiên cứu các đề tài nghiên cứu khoa học chỉ đạo việc tìm tòi và lựa chọn phương pháp nghiên cứu và ngược lại nếu lựa chọn phương pháp chính xác, phù hợp sẽ làm cho mục đích nghiên cứu đạt tới nhanh hơn, và đôi khi vượt qua cả yêu cầu mà mục đích đã dự kiến ban đầu.

Phương pháp nghiên cứu gắn chặt với nội dung của các vấn đề cần nghiên cứu. Phương pháp là hình thức vận động của nội dung. Nội dung công việc quy định phương pháp làm việc. Trong mỗi đề tài khoa học đều có phương pháp cụ thể, trong mỗi ngành khoa học có một hệ thống phương pháp đặc trưng.

Phương pháp nghiên cứu khoa học có một cấu trúc đặc biệt đó là một hệ thống các thao tác được sắp xếp theo một chương trình tối ưu. Sự thành công nhanh chóng hay không của một hoạt động nghiên cứu chính là phát hiện được hay không lôgíc tối ưu của các thao tác hoạt động và sử dụng nó một cách có ý thức.

Phương pháp nghiên cứu khoa học luôn cần có các công cụ hỗ trợ, cần có các phương tiện kỹ thuật hiện đại với độ chính xác cao. Phương tiện và phương pháp là hai phạm trù khác nhau nhưng chúng lại gắn bó chặt chẽ với nhau căn cứ vào đối tượng nghiên cứu mà ta chọn phương pháp nghiên cứu, theo yêu cầu của phương pháp nghiên cứu mà chọn các phương tiện phù hợp, nhiều khi còn cần phải tạo ra các công cụ đặc biệt để nghiên cứu một đối tượng nào đó. Chính các phương tiện kỹ thuật hiện đại đảm bảo cho quá trình nghiên cứu đạt tới độ chính xác cao.

Các quan điểm phương pháp luận nghiên cứu khoa học có tính lý luận cho nên thường mang màu sắc triết học, tuy nhiên nó không đồng nhất với triết học( như thế giới quan) để tiếp cận và nhận thức thế giới.

Phương pháp luận được chia thành phương pháp bộ môn – lý luận về phương pháp được sử dụng trong một bộ môn khoa học và phương pháp luậnchung cho các khoa học. Phương pháp luận chung nhất, phổ biến cho hoạt động nghiên cứu khoa học là triết học. Triết học Mác-Lênin là phương pháp luận đáp ứng những đòi hỏi của nhận thức khoa học hiện đại cũng như hoạt động cải tạo và xây dựng thế giới mới.

Những phương pháp nghiên cứu khoa học riêng gắn liền với từng bộ môn khoa học( toán học, vật lý học, sinh vật học, kinh tế học v.v…). Do vậy những phương pháp riêng này sẽ được làm sáng tỏ khi nghiên cứu những môn học tương ứng.

Dựa trên những đặc điểm cơ bản của phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu khoa học, chúng ta đi vào việc phân loại các phương pháp.

Các Nhóm Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Nghiên Cứu Khoa Học

Published on

Các nhóm phương pháp nghiên cứu khoa học

1. NHÓM 5 I. PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM. II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU SẢN PHẨM HOẠT ĐỘNG. III. PHƯƠNG PHÁP HỎI Ý KIẾN CHUYÊN GIA.

3. -Trong thực tiễn, người ta thường dùng các loại thực nghiệm: 2. CÁC LOẠI THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM *Thực nghiệm thăm dò (phát hiện bản chất sự vật để xây dựng giả thuyết) *Thực nghiệm tác động *Thực nghiệm kiểm tra (kiểm chứng các giả thuyết khoa học) *Thực nghiệm ứng dụng *Thực nghiệm triển khai

4. Thực nghiệm thăm dò Xác định bản chất: không gian học tập, điều kiện học tập quyết định đến chất lượng dạy và học Dựa vào điều kiện thực tế để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục

5. Kiểm tra lại tính xác thực của các giả thiết khoa học Thự c nghiệm kiểm tra Xác định, đánh giá tính hiệu quả của việc sự dụng phương pháp dạy học bằng sơ đồ tư duy

6. Thực nghiệm tác động Phương pháp dạy

7. Thực nghiệm ứng dụng-triển khai Thực hiện thí điểm Ứng dụng rộng rãi

8. -Từ mâu thuẫn giáo dục đề ra các giả thuyết khoa học và các biện pháp khắc phục. -Trên cơ sở giả thuyết, phân tích các biến số độc lập và chọn các nhóm thực nghiệm và đối chứng tương đương nhau về phương diện và tiến hành thực nghiệm trong điều kiện giống nhau. -Tiến hành thực nghiệm đối với nhóm thực nghiệm và quan sát tỉ mỉ diễn biến kết quả của hai nhóm một cách khách quan. -Xử lí tài liệu thực nghiệm. -Kết quả xử lý tài liệu cho chúng ta những cơ sở khẳng định giả thuyết, rút ra những bài học cần thiết và đề xuất những ứng dụng vào thực tế. 3. Tổ chức thực nghiệm sư phạm

9. -Để đảm bảo tính phổ biến của kết quả thực nghiệm điều cần chú ý là phải chọn đối tượng tiêu biểu để nghiên cứu, cần tiến hành ở nhiều địa bàn, trên các đối tượng khác nhau và cần thiết hơn nữa là tiến hành thực nghiệm lặp lại nhiều lần trên cùng một đối tượng ở các thời điểm. Kết quả thực nghiệm sư phạm là kết quả khách quan nhất trong các kết quả nghiên cứu khoa học bằng các phương pháp khác .

10. a. Ưu điểm. -Thực nghiệm sư phạm là chiếc kính hiển vi giúp ta đi sâu vào bản chất của hiện tượng giáo dục, tìm ra mối quan hệ nhân quả của nhiều sự kiện giáo dục. 4. ƯU VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM

11. -Thực nghiệm sư phạm tìm ra những cái mới trong hoạt động giáo dục.

13. -Thực nghiệm sư phạm tuy là kính hiển vi, nhưng không phải lúc nào cũng đeo kính vào mắt để đi đường mà ngắm cảnh được. Mặt khác, do nhiều điều kiện khó khăn, nên thông thường số lượng đơn vị trong tập mẫu không thỏa mãn nhu cầu tối thiểu. Trong những hoàn cảnh như vậy, phải thận trọng phát biểu kết luận sư phạm thực nghiệm sư phạm cho phổ biến và đại trà. VD: Trong quá trình thực nghiệm chọn một số nơi thực nghiệm thích hợp với thực nghiệm nhưng những nơi khác thì không chắc sẽ làm được như vậy.

14. – Một là, xây dựng giả thuyết thực nghiệm trên cơ sở phân tích kĩ các biến số độc lập. – Hai là, chọn hai nhóm thực nghiệm và đối chứng có số lượng, trình độ và mọi điều kiện tương đương nhau về mọi phương diện, nhằm khống chế những nhân tố không tham gia thực nghiệm và tách ra được những nhân tố tham gia thực nghiệm. -Ba là, tác động đến nhóm thực nghiệm đúng phương pháp, đo đầu vào và đầu ra sao cho khách quan. -Bốn là, xử lí kết quả thực nghiệm chính xác, chân thực cả về mặt định lượng lẫn mặt định tính, đối chiếu kết quả thực nghiệm với giả thuyết khoa học và rút ra kết luận. 5. YÊU CẦU

15. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU SẢN PHẨM HOẠT ĐỘNG 1. KHÁI NIỆM: -Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động là phương pháp mà nhà nghiên cứu sẽ thông qua các sản phẩm mà đối tượng được nghiên cứu (học sinh, giáo viên, cán bộ giáo dục, ..v.vv.) tạo ra như bài làm, bài chấm vở ghi, bài soạn, sổ sách, nhật ký, các sáng tạo văn học nghệ thuật, sản phẩm lao động, học tập, v.v.. để tìm hiểu tính chất, đặc điểm của con người và hoạt động tao ra các sản phẩm đó.

16. *Về nguyên tắc, thông qua những sản phẩm của con người tạo ra mà chúng ta có thể nhận ra tư tưởng tình cảm, ý chí cũng như năng lực của họ. Tuy nhiên cũng cần chú ý rằng một sản phẩm hoạt động cũng có thể có hai cách sử dụng khó khăn. -Nếu sử dụng các sản phẩm hoạt động đó làm tài liệu để phân tích những đặc điểm tâm lý của những người được nghiên cứu, của hoạt động tạo ra những sản phẩm đó thì việc sử dụng phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động là đúng đắn. Nhưng nếu dùng những nhận xét vủa người khác làm cứ liệu về nhân cách của đối tượng được nghiên cứu qua sản phẩm qua hoạt động của mình, lúc này tính khách quan đã mất đi rất nhiều. Trong trường hợp này, đó là ý thức chủ quan của người ghi nhật kí chứ không còn là sự kiện khách quan nữa. Đó không phải là phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động mà chính là phương pháp trò chuyện gián tiếp (được viết ra).

17. a. Ưu điểm : -Giúp người nghiên cứu có thể khách quan hóa (trực quan hóa) nhưng đặc điểm tâm lí, sinh lí thông qua sản phẩm hoạt động của họ. -Sản phẩm hoạt động còn là một phương tiện thổ lộ tâm lí và tình cảm của người tạo ra nó. 2. ƯU ĐIỂM VÀ NHƯỢC ĐIỂM:

18. b. Nhược điểm: -Người nghiên cứu chỉ biết kết quả cuối cùng, chứ không biết quá trình tạo ra sản phẩm đó như thế nào. -Đôi khi qua sản phẩm chúng ta không xác định một cách chính xác chiều hướng phát triển của người tạo ra sản phẩm như thế nào.

19. + Đầu tiên tìm cách xây dựng lại đầy đủ quá trình hoạt động để tạo nên sản phẩm mà ta nghiên cứu. Ví dụ, đối với, bài làm, bài soạn, bài giảng, sáng tác… có thể sử dụng những bản nháp, dự thảo được sắp đặt theo thời gian. Bằng cách đó nhiều khi sẽ giúp phát hiện những điểm quan trọng và tinh tế mà chỉ tìm hiểu sản phẩm cuối cùng thì không thể nhận thấy được. + Dựng lại hoàn cảnh thực tế mà sản phẩm tạo ra, đặc biệt khi tình trạng hoạt động mới bắt đầu. Làm được điều đó giúp ta hiểu về con người và hoạt động tạo ra sản phẩm một cách đầy đủ, sâu sắc hơn nhiều, khác về chất. +Nên tìm hiểu đầy đủ về các mặt khác nhau của con người tạo ra sản phẩm. Làm được điều này sẽ giúp ta hiểu sâu hơn về sản phẩm và quá trình tạo ra nó. 3. YÊU CẦU

20. *Để thực hiện các yêu cầu này cần sử dụng tài liệu thu được bằng những phương pháp khác nhau như trò chuyện, quan sát, điều tra, tự thuật, tiểu sử, tất nhiên cũng cần nắm vững lí luận tâm lí học về tâm lí học của con người.

21. Ví dụ: Khi tiến hành nghiên cứu khả năng đọc hiểu của học sinh trong môn tiếng Anh bằng cách cho học sinh làm một bài test hay tập hợp những bài tập trước để đánh giá mức độ của học sinh, nhưng nhận thấy kết quả không khả quan. Giáo viên nên điều chỉnh hay đưa ra phương án dạy học hiệu quả như khi đọc một đoạn văn, học sinh không nên dịch từng từ một, vì như vậy sẽ rất mất thì giờ, dẫn đến kết quả kém.

22. 2. PP LẤY Ý KIẾN CHUYÊN GIA 1. KHÁI NIỆM: – Là phương pháp thu thập thông tin khoa học , nhận định, đánh giá một sản phẩm khoa họ, bằng cách sử dụng trí tuệ một đội ngũ chuyên gia có trình độ cao về một lĩnh vực nhất định.Ý kiến của từng người sẽ bổ sung lẫn nhau, kiểm tra lẫn nhau, cho ta một ý kiến tối ưu, khách quan về một vấn đề khoa học .

23. 2. MỤC ĐÍCH: Là phương pháp khai thác và vận dụng “chất xám” của các chuyên gia, nhằm mục đích : + Thu thập thông tin khoa học +Thu lượm những ý kiến đánh giá về tình hình giáo dục,về những sản phẩm giáo dục,về những sản phẩm khoa học ….. +Thu lượm những ý kiến về giải pháp giáo dục cho vấn đề muốn khai thác,không những vậy, mà còn có tính trung thực khoa học…

25. CẢM ƠN CÔ VÀ CÁC BẠN ĐÃ LẮNG NGHE!!!

Tiểu Luận Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Và Phương Pháp Luận Nghiên Cứu Khoa Học

Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ đã góp phần thúc đẩy công tác nghiên cứu khoa học ngày càng trở nên sôi nổi hơn và cấp thiết hơn trên phạm vi toàn cầu. Việc càng ngày càng xuất hiện thêm nhiều phương pháp mới trong nghiên cứu khoa học đã chứng tỏ con người ngày càng có nhiều khả năng hơn để nhận thức thế giới khách quan. Khoa học và công nghệ đã trở thành động lực thúc đẩy sự tiến bộ nhân loại. Cùng với nghiên cứu khoa học hiện đại, càng ngày phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu khoa học càng được chú ý đến và nó còn được coi là một trong những nhân tố quan trọng để phát triển khoa học.

Phương pháp nghiên cứu khoa học và phương pháp luận nghiên cứu khoa học MỤC LỤC Lời nói đầu 2 I. Phương pháp nghiên cứu khoa học và phương pháp luận nghiên cứu khoa học 3 1. Phương pháp nghiên cứu khoa học 3 a. Khái niệm 3 b. Đặc điểm của phương pháp nghiên cứu khoa học 4 2. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học 6 3. Phân loại phương pháp 7 a. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm 7 b. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết 9 II. Một số phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể 10 1. Phương pháp phân tích và tổng hợp 10 2. Phương pháp quy nạp và diễn giải 12 3. Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc 13 a. Phương pháp lịch sử 13 b. Phương pháp lôgíc 15 c. Tính thống nhất giữa phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc 17 Kế luận 19 Tài liệu tham khảo 20 LỜI NÓI ĐẦU Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên mà mọi thành tựu khoa học và công nghệ đều xuất hiện một cách hết sức mau lẹ và cũng được đổi mới một cách cực kỳ nhanh chóng. Ngày nay nghiên cứu khoa học là một trong những hoạt động có tốc độ phát triển nhanh nhất thời đại. Bộ máy nghiên cứu khoa học đã trở thành khổng lồ, nó đang nghiên cứu tất cả các góc cạnh của thế giới. Các thành tựu nghiên cứu khoa học đã được ứng dụng vào mọi lĩnh vực của cuộc sống. Khoa học đã làm đảo lộn nhiều quan niệm truyền thống, nó làm cho sức sản xuất xã hội tăng lên hàng trăm lần so với vài thập niên gần đây. Về phần mình, bản thân khoa học càng cần được nghiên cứu một cách khoa học. Một mặt, phải tổng kết thực tiễn nghiên cứu khoa học để khái quát những lý thuyết về quá trình sáng tạo khoa học; mặt khác, phải tìm ra được các biện pháp tổ chức, quản lý và nghiên cứu khoa học tốt hơn làm cho bộ máy khoa học vốn đã mạnh, lại phát triển mạnh hơn và đi đúng quỹ đạo hơn. Có lẽ không phải ngẫu nhiên, nhà tương lai học Thierry Gaudin đã đưa ra một thông điệp khẩn thiết: “ Hãy học phương pháp chứ đừng học dữ liệu!”. Sự phát triển của khoa học hiện đại không những đem lại cho con người những hiểu biết sâu sắc về thế giới, mà còn đem lại cho con người cả những hiểu biết về phương pháp nhận thức thế giới. Chính vì vậy mà phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu khoa học đã gắn liền với hoạt động có ý thức của con người, là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới.Và cũng chính vì vậy mà hiện nay việc nghiên cứu phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu khoa học ngày càng trở nên cần thiết nhằm giúp cho công tác nghiên cứu khoa học đạt hiệu quả hơn, phát triển mạnh mẽ hơn. Đó cũng chính là vấn đề tôi xin được trình bày trong bài viết này: “Phương pháp nghiên cứu khoa học và phương pháp luận nghiên cứu khoa học.” I. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 1. Phương pháp nghiên cứu khoa học a. Khái niệm Trước hết để hiểu được thế nào là phương pháp nghiên cứu khoa học, các khái niệm, các đặc điểm của phương pháp nghiên cứu khoa học, chúng ta cần phải hiểu được khái niệm khoa học là gì? Khoa học là một khái niệm có nội hàm phức tạp, tùy theo mục đích nghiên cứu và cách tiếp cận ta có thể phân tích ở nhiều khía cạnh khác nhau. ở mức độ chung nhất, khoa học được hiểu như sau: Khoa học là hệ thống tri thức được rút ra từ hoạt động thực tiễn và được chứng minh, khẳng định bằng các phương pháp nghiên cứu khoa học. Phương pháp không chỉ là vấn đề lý luận mà còn là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn to lớn, bởi vì chính phương pháp góp phần quyết định thành công của mọi quá trình nghiên cứu khoa học.Phương pháp là công cụ, giải pháp, cách thức, thủ pháp, con đường, bí quyết, quy trình công nghệ để chúng ta thực hiện công việc nghiên cứu khoa học. Bản chất của nghiên cứu khoa học là từ những hiện tượng chúng ta cảm nhận được để tìm ra các quy luật của các hiện tượng đó. Nhưng bản chất bao giờ cũng nằm sâu trong nhiều tầng hiện tượng, vì vậy để nhận ra được bản chất nằm sâu trong nhiều tầng hiện tượng và nhận ra được quy luật vận động của chúng đòi hỏi chúng ta phải có phương pháp nghiên cứu khoa học. Như vậy phương pháp chính là sản phẩm của sự nhận thức đúng quy luật của đối tượng nghiên cứu. Đến lượt mình, phương pháp là công cụ có hiệu quả để tiếp tục nhận thức sâu hơn và cải tạo tốt hơn đối tượng đó. Trong thực tế cuộc sống của chúng ta người thành công là người biết sử dụng phương pháp. Như vậy, bản chất của phương pháp nghiên cứu khoa học chính là việc con người sử dụng một cách có ý thức các quy luật vận động của đối tượng như một phương tiện để khám phá chính đối tượng đó. Phương pháp nghiên cứu chính là con đường dẫn nhà khoa học đạt tới mục đích sáng tạo. b. Đặc điểm của phương pháp nghiên cứu khoa học Phương pháp bao giờ cũng là cách làm việc của chủ thể nhằm vào các đối tượng cụ thể, ở đây có hai điều chú ý là: chủ thể và đối tượng. ãPhương pháp là cách làm việc của chủ thể, cho nên nó gắn chặt với chủ thể và như vậy phương pháp có mặt chủ quan. Mặt chủ quan của phương pháp chính là năng lực nhận thức, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo của chủ thể, thể hiện trong việc ý thức được các quy luật vận động của đối tượng và sử dụng chúng để khám phá chính đối tượng. ãPhương pháp là cách làm việc của chủ thể và bao giờ cũng xuất phát từ đặc điểm của đối tượng, phương pháp gắn chặt với đối tượng, và như vậy phương pháp có mặt khách quan. Mặt khách quan quy định việc chọn cách này hay cách kia trong hoạt động của chủ thể. Đặc điểm của đối tượng chỉ dẫn cách chọn phương pháp làm việc, Trong nghiên cứu khoa học cái chủ quan phải tuân thủ cái khách quan. Các quy luật khách quan tự chúng chưa phải là phương pháp, nhưng nhờ có chúng mà ta phát hiện ra phương pháp. Ý thức về sự sáng tạo của con người phải tiếp cận được các quy luật khách quan của thế giới. Phương pháp có tính mục đích vì hoạt động của con người đều có mục đích, mục đích nghiên cứu các đề tài nghiên cứu khoa học chỉ đạo việc tìm tòi và lựa chọn phương pháp nghiên cứu và ngược lại nếu lựa chọn phương pháp chính xác, phù hợp sẽ làm cho mục đích nghiên cứu đạt tới nhanh hơn, và đôi khi vượt qua cả yêu cầu mà mục đích đã dự kiến ban đầu. Phương pháp nghiên cứu gắn chặt với nội dung của các vấn đề cần nghiên cứu. Phương pháp là hình thức vận động của nội dung. Nội dung công việc quy định phương pháp làm việc. Trong mỗi đề tài khoa học đều có phương pháp cụ thể, trong mỗi ngành khoa học có một hệ thống phương pháp đặc trưng. Phương pháp nghiên cứu khoa học có một cấu trúc đặc biệt đó là một hệ thống các thao tác được sắp xếp theo một chương trình tối ưu. Sự thành công nhanh chóng hay không của một hoạt động nghiên cứu chính là phát hiện được hay không lôgíc tối ưu của các thao tác hoạt động và sử dụng nó một cách có ý thức. Phương pháp nghiên cứu khoa học luôn cần có các công cụ hỗ trợ, cần có các phương tiện kỹ thuật hiện đại với độ chính xác cao. Phương tiện và phương pháp là hai phạm trù khác nhau nhưng chúng lại gắn bó chặt chẽ với nhau căn cứ vào đối tượng nghiên cứu mà ta chọn phương pháp nghiên cứu, theo yêu cầu của phương pháp nghiên cứu mà chọn các phương tiện phù hợp, nhiều khi còn cần phải tạo ra các công cụ đặc biệt để nghiên cứu một đối tượng nào đó. Chính các phương tiện kỹ thuật hiện đại đảm bảo cho quá trình nghiên cứu đạt tới độ chính xác cao. 2. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học Các quan điểm phương pháp luận nghiên cứu khoa học có tính lý luận cho nên thường mang màu sắc triết học, tuy nhiên nó không đồng nhất với triết học( như thế giới quan) để tiếp cận và nhận thức thế giới. Phương pháp luận được chia thành phương pháp bộ môn – lý luận về phương pháp được sử dụng trong một bộ môn khoa học và phương pháp luận chung cho các khoa học. Phương pháp luận chung nhất, phổ biến cho hoạt động nghiên cứu khoa học là triết học. Triết học Mác-Lênin là phương pháp luận đáp ứng những đòi hỏi của nhận thức khoa học hiện đại cũng như hoạt động cải tạo và xây dựng thế giới mới. Những phương pháp nghiên cứu khoa học riêng gắn liền với từng bộ môn khoa học( toán học, vật lý học, sinh vật học, kinh tế học v.v…). Do vậy những phương pháp riêng này sẽ được làm sáng tỏ khi nghiên cứu những môn học tương ứng. Dựa trên những đặc điểm cơ bản của phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu khoa học, chúng ta đi vào việc phân loại các phương pháp. 3. Phân loại phương pháp Căn cứ vào mức độ cụ thể của phương pháp, các phương pháp nghiên cứu chung trước hết được phân chia thành hai loại: Các phương pháp tổng quát và các phương pháp nghiên cứu cụ thể. Có nhiều phương pháp nghiên cứu tổng quát ( khái quát, trừu tượng) khác nhau. Căn cứ vào đặc điểm của quá trình tư duy, phương pháp tổng quát được chia thành các phương pháp như : phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn giải, lôgic-lịch sử, hệ thống-cấu trúc… Nếu căn cứ vào cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu, sự khác nhau của những lao động cụ thể trong nghiên cứu khoa học, phương pháp tổng quát được chia thành loại phương pháp nghiên cứu thực nghiệm và loại phương pháp nghiên cứu lý thuyết. a. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm Loại phương pháp này bao gồm các phương pháp quan sát, thí nghiệm thực nghiệm. Quan sát là phương pháp nghiên cứu để xác định các thuộc tính và quan hệ của sự vật, hiện tượng riêng lẻ xét trong điều kiện tự nhiên vốn có của nó nhờ khả năng thụ cảm của các giác quan, khả năng phân tích tổng hợp, khái quát trìu tượng hoá. Thực nghiệm, thí nghiệm là việc người nghiên cứu khoa học sử dụng các phương tiện vật chất tác động lên đối tượng nghiên cứu nhằm kiểm chứng các giả thiết, lý thuyết khoa học, chính xác hoá, bổ sung chỉnh lý các phỏng đoán giả thiết ban đầu tức là để xây dựng các giả thiết, lý thuyết khoa học mới. Thí nghiệm, thực nghiệm bao giờ cũng được tiến hành theo sự chỉ đạo của một ý tưởng khoa học nào đấy. Như vậy để tiến hành thí nghiệm, thực nghiệm phải có tri thức khoa học và điều kiện vật chất. Phương pháp thực nghiệm được áp dụng khá phổ biến trong các ngành khoa học tự nhiên kỹ thuật-công nghệ- là những ngành khoa học có khả năng định lượng chính xác. Trong những lĩnh vực này, sự phát triển của khoa học kỹ thuật còn cho phép tạo ra những môi trường nhân tạo, khác với môi trường bình thường để nghiên cứu sự vận động biến đổi của đối tượng. Các ngành khoa học xã hội là lĩnh vực khó có khả năng tiến hành các thí nghiệm khoa học, áp dụng phương pháp thử nghiệm. Song thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Mọi khái quát, trìu tượng, mọi lý thuyết nếu không được thực tiễn chấp nhận đều không có chỗ đứng trong khoa học. Ở đây quan sát, tổng kết thực tiễn người nghiên cứu khoa học có khả năng nhận thức nhanh hơn con đường do lịch sử tự vạch ra. Trong những phạm vi nhất định, người ta cũng có thể tiến hành các thí nghiệm xã hội học. Ở đây cần lưu ý rằng tính toán xã hội của khoa học xã hội đòi hỏi những phương tiện, điều kiện vật chất, môi trường thử nghiệm phải là những điều kiện phổ biến ( đã có trong toàn xã hội, hoặc chắc chắn được tạo ra trong toàn xã hội). Trong phương pháp nghiên cứu thực nghiệm, nhiều trường hợp người ta còn sử dung phương pháp mô hình hoá mà đối tượng nghiên cứu không cho phép quan sát thực nghiệm trực tiếp. Cơ sở để áp dụng phương pháp mô hình hoá là sự giống nhau về các đặc điểm, chức năng, tính chất đã được xác lập vững chắc giữa các sự vật hiện tượng, quá trình xảy ra trong tự nhiên xã hội, tư duy. Dựa trên cơ sở này, từ những kết quả nghiên cứu đối với mô hình người ta rút ra những kết luận khoa học về đối tượng cần nghiên cứu. Trong nghiên cứu thực nghiệm người ta cũng còn vận dụng cả các phương pháp phân tích tổng hợp, quy nạp-diễn giải và lôgíc-lịch sử. b. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết Loại phương pháp nghiên cứu lý thuyết bao gồm các phương pháp khái quát, trìu tượng hoá, diễn dịch, quy nạp, phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, v.v… Loại phương pháp lý thuyết được dùng cho tất cả các ngành khoa học. Khác với nghiên cứu thực nghiệm phải sử dụng các yếu tố, điều kiện vật chất tác động vào đối tượng nghiên cứu, trong nghiên cứu lý thuyết quá trình tìm kiếm phát hiện diễn ra thông qua tư duy trìu tượng, sử dụng các phương tiện ngôn ngữ, chữ viết, v.v…Do vậy loại phương pháp này giữ một vị trí rất cơ bản trong nghiên cứu khoa học xã hội- nhân văn. Điểm xuất phát của nghiên cứu thực nghiệm là quan sát thực tiễn, quan sát sự vận động của đối tượng nghiên cứu. Trong nghiên cứu lý thuyết, nền tảng và điểm xuất phát của quá trình nghiên cứu là tri thức lý luận( các quan điểm, các lý thuyết). Do vậy việc nắm vững hệ thống lý luận nền tảng đóng vai trò rất quyết định trong loại phương pháp này. Nắm vững lý thuyết nền là cơ sở hình thành định hướng trong nghiên cứu hình thành các trường phái khoa học. Học thuyết Mác-Lênin là hệ thống lý luận nền tảng đối với toàn bộ khoa học xã hội ở nước ta. Người nghiên cứu khoa học xã hội do vậy phải được trang bị vững chắc lý luận Mác-Lênin là cơ sở cho toàn bộ quá trình sáng tạo phát triển tiếp theo. Tri thức khoa học là tri thức chung, tài sản chung của nhân loại. Bất cứ lý thuyết nào nếu được thực tiễn chấp nhận, đều có hạt nhân khoa học, hợp lý của nó. Bên cạnh việc nắm vững học thuyết Mác-Lênin làm điểm xuất phát, nền tảng, người nghiên cứu khoa học xã hội ở ta còn phải tiếp thu được các lý luận, học thuyết khác. Tiếp thu các lý luận, học thuyết khác vừa để tiếp thu được những khía cạnh hợp lý, khoa học, tức là những tinh hoa trong kho tàng tri thức nhân loại, giúp cho mình tiếp tục phát triển lý luận Mác-Lênin, vừa để nhìn thấy những khiếm khuyết bất cập của các lý luận ấy, góp phần vào cuộc đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin. Cần lưu ý rằng nếu không nắm vững lý luận nền tảng là học thuyết Mác-Lênin, người nghiên cứu khoa học rất khó khăn trong việc tìm ra cái đúng, cái sai của các lý luận khác. Đó là một nguyên nhân gây ra tình trạng rối loạn trong lĩnh vực tư tưởng lý luận khi chuyển sang kinh tế thị trường mở cửa ở nước ta hiện nay. Nếu như các quy luật tự nhiên tồn tại một cách lâu dài, thì các quy luật xã hội tồn tại, vận động trên những điều kiện xã hội nhất định. Thoát ly tính lịch sử cụ thể luôn là một nguy cơ dẫn phương pháp lý thuyết trong nghiên cứu khoa học xã hội rơi vào tình trạng duy tâm, siêu hình, bám giữ lấy những nguyên lý, công thức lỗi thời lạc hậu trở thành giáo điều kinh viện, kìm hãm khoa học. Trong phương pháp lý thuyết do đặc tính của quá trình sáng tạo khoa học diễn ra thông qua tư duy trìu tượng, suy luận, khái quát hoá, lại không được thực tiễn kiểm chứng ngay, mà phải trải qua một thời gian khá dài đúng sai mới sáng tỏ. Điều đó dễ dẫn người làm khoa học phạm vào sai lầm chủ quan duy ý chí, tự biện. Coi trọng phương pháp lý thuyết trong nghiên cứu khoa học xã hội, người làm khoa học cần chú ý kết hợp phương pháp này với phương pháp quan sát, tổng kết thực tiễn.Sự kết hợp này là yếu tố bổ sung, giúp người nghiên cứu khoa học tránh được những hạn chế do phương pháp lý thuyết đưa lại. II. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỤ THỂ 1. Phương pháp phân tích và tổng hợp Phân tích trước hết là phân chia cái toàn thể của đối tượng nghiên cứu thành những bộ phận, những mặt, những yếu tố cấu thành giản đơn hơn để nghiên cứu, phát hiện ra từng thuộc tính và bản chất của từng yếu tố đó, và từ đó giúp chúng ta hiểu được đối tượng nghiên cứu một cách mạch lạc hơn, hiểu được cái chung phức tạp từ những yếu tố bộ phận ấy. Khi chúng ta đứng trước một đối tượng nghiên cứu, chúng ta cảm giác được nhiều hiện tượng đan xen nhau, chồng chéo nhau làm lu mờ bản chất của nó.Vậy muốn hiểu được bản chất của một đối tượng nghiên cứu chúng ta cần phải phân chia nó theo cấp bậc. Nhiệm vụ của phân tích là thông qua cái riêng để tìm ra được cái chung, thông qua hiện tượng để tìm ra bản chất, thông qua cái đặc thù để tìm ra cái phổ biến. Khi phân chia đối tượng nghiên cứu cần phải: + Xác định tiêu thức để phân chia. + Chọn điểm xuất phát để nghiên cứu. + Xuất phát từ mục đích nghiên cứu để tìm thuộc tính riêng và chung. Bước tiếp theo của phân tích là tổng hợp. Tổng hợp là quá trình ngược với quá trình phân tích, nhưng lại hỗ trợ cho quá trình phân tích để tìm ra cái chung cái khái quát. Từ những kết quả nghiên cứu từng mặt, phải tổng hợp lại để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung, tìm ra được bản chất, quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu. Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp gắn bó chặt chẽ quy định và bổ sung cho nhau trong nghiên cứu, và có cơ sở khách quan trong cấu tạo, trong tính quy luật của bản thân sự vật. Trong phân tích, việc xây dựng một cách đúng đắn tiêu thức phân loại làm cơ sở khoa học hình thành đối tượng nghiên cứu bộ phận ấy, có ý nghĩa rất quan trọng. Trong nghiên cứu tổng hợp vai trò quan trọng thuộc về khả năng liên kết các kết quả cụ thể( có lúc ngược nhau) từ sự phân tích, khả năng trìu tượng, khái quát nắm bắt được mặt định tính từ rất nhiều khía cạnh định lượng khác nhau. Với các ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật do tính chính xác quy định, mặt phân tích định lượng có vai trò khá quyết định kết quả nghiên cứu. Quá trình tổng hợp, định tính ở đây hoặc giả là những phán đoán, dự báo thiên tai, chỉ đạo cả quá trình nghiên cứu, hoặc giả là những kết luận rút ra từ phân tích định lượng.Trong các ngành khoa học xã hội- nhân văn, sự hạn chế độ chính xác trong phân tích định lượng làm cho kết quả nghiên cứu lệ thuộc rất nhiều vào tổng hợp, định tính. Song chính đặc điểm này dễ làm cho kết quả nghiên cứu bị sai lệch do những sai lầm chủ quan duy ý chí. 2. Phương pháp quy nạp và diễn giải Phương pháp quy nạp là phương pháp đi từ những hiện tượng riêng lẻ, rời rạc, độc lập ngẫu nhiên rồi liên kết các hiện tượng ấy với nhau để tìm ra bản chất của một đối tượng nào đó. Từ những kinh nghiệm, hiểu biết các sự vật riêng lẻ người ta tổng kết quy nạp thành những nguyên lý chung. Cơ sở khách quan của phương pháp quy nạp là sự lặp lại của một số hiện tượng này hay hiện tượng khác do chỗ cái chung tồn tại, biểu hiện thông qua cái riêng. Nếu như phương pháp phân tích-tổng hợp đi tìm mối quan hệ giữa hình thức và nội dung thì phương pháp quy nạp đi sâu vào mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng. Một hiện tượng bộc lộ nhiều bản chất. Nhiệm vụ của khoa học là thông qua hiện tượng để tìm ra bản chất, cuối cùng đưa ra giải pháp. Phương pháp quy nạp đóng một vai trò quan trọng trong việc phát hiện ra các quy luật, rút ra từ những kết luận tổng quát đưa ra các giả thuyết. Trong nghiên cứu khoa học, người ta còn có thể xuất phát từ những giả thuyết hay từ những nguyên lý chung để đi sâu nghiên cứu những hiện tượng cụ thể nhờ vậy mà có nhận thức sâu sắc hơn từng đối tượng nghiên cứu. Phương pháp diễn giải ngược lại với phương pháp quy nạp. Đó là phương pháp đi từ cái bản chất, nguyên tắc, nguyên lý đã được thừa nhận để tìm ra các hiện tượng, các biểu hiện, cái trùng hợp cụ thể trong sự vận động của đối tượng. Phương pháp diễn giải nhờ vậy có ý nghĩa rất quan trọng trong những bộ môn khoa học thiên về nghiên cứu lý thuyết, ở đây người ta đưa ra những tiền đề, giả thuyết, và bằng những suy diễn lôgic để rút ra những kết luận, định lý, công thức. Quy nạp và diễn giải là hai phương pháp nghiên cứu theo chiều ngược nhau song liên hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nhờ có những kết quả nghiên cứu theo phương pháp quy nạp trước đó mà việc nghiên cứu có thể tiếp tục, phát triển theo phương pháp diễn giải. Phương pháp diễn giải, do vậy mở rộng giá trị của những kết luận quy nạp vào việc nghiên cứu đối tượng. 3. Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc là hai mặt biểu hiện của phương pháp biện chứng mácxít . Tính thống nhất và tính khác biệt của nó cũng bắt nguồn từ tính thống nhất và tính khác biệt của hai phạm trù lịch sử và lôgíc. a. Phương pháp lịch sử Các đối tượng nghiên cứu( sự vật, hiện tượng) đều luôn biến đổi, phát triển theo những hoàn cảnh cụ thể của nó, tạo thành lịch sử liên tục được biểu hiện ra trong sự đa dạng, phức tạp, nhiều hình nhiều vẻ có cả tất nhiên và ngẫu nhiên. Phương pháp lịch sử là phương pháp thông qua miêu tả tái hiện hiện thực với sự hỗn độn, lộn xộn, bề ngoài của các yếu tố, sự kiện kế tiếp nhau, để nêu bật lên tính quy luật của sự phát triển. Hay nói cách khác,phương pháp lịch sử là phương pháp nghiên cứu bằng cách đi tìm nguồn gốc phát sinh, quá trình phát triển và biến hoá của đối tượng, để phát hiện ra bản chất và quy luật của đối tượng. Do đó phương pháp lịch sử có những đặc điểm sau: ¨ Nó phải đi sâu vào tính muôn màu muôn vẻ của lịch sử, tìm ra cái đặc thù, cái cá biệt ở trong cái phổ biến. Và trên cơ sở nắm được những đặc thù cá biệt đó mà trình bày thể hiện cái phổ biến của lịch sử. Phương pháp lịch sử còn yêu cầu chúng ta phải tìm hiểu cái không lặp lại bên cái lặp lại. Các hiện tượng lịch sử thường hay tái diễn, nhưng không bao giờ diễn lại hoàn toàn như cũ. Phương pháp lịch sử phải chú ý tìm ra cái khác trước, cái không lặp lại để thấy những nét đặc thù lịch sử. Thí dụ, cũng là khởi nghĩa nông dân, nhưng khởi nghĩa nông dân Nguyễn Hữu Cầu có khác khởi nghĩa nông dân Hoàng Hoa Thám về đối tượng, quy mô và hình thức đấu tranh… Phương pháp lịch sử lại yêu cầu chúng ta phải theo dõi những bước quanh co, thụt lùi tạm thời…của phát triển lịch sử. Bởi vì lịch sử phát triển muôn màu muôn vẻ, có khi cái cũ chưa đi hẳn, cái mới đã nảy sinh. Hoặc khi cái mới đã chiếm ưu thế, nhưng cái cũ hãy còn có điều kiện và nhu cầu tồn tại trong một chừng mực nhất định. Phương pháp lịch sử phải đi sâu vào những uẩn khúc đó. Phương pháp lịch sử yêu cầu chúng ta đi sâu vào ngõ ngách của lịch sử, đi sâu vào tâm lý, tình cảm của quần chúng, hiểu lịch sử cả về điểm lẫn về diện, hiểu từ cá nhân, sự kiện, hiện tượng đến toàn bộ xã hội. Chẳng hạn như nói về cách mạng Tháng Tám, nếu chỉ nêu lên những đặc điểm, quy luật và sự kiện điển hình thì chưa đủ để thấy được sắc thái đặc biệt của nó khác với các cuộc cách mạng khác. Tâm lý của quần chúng trước ngày khởi nghĩa, tình cảm đối với Đảng, với cách mạng, những hành vi biểu lộ tâm lý, tình cảm đó lại là những nét mà lịch sử phải chú ý để cho sự miêu tả được sinh động, tránh khô khan, công thức, gò bó. Phương pháp lịch sử phải chú ý những tên người, tên đất, không gian, thời gian, thời gian cụ thể, nhằm dựng lại quá trình lịch sử đúng như nó diễn biến. Tóm lại, mọi sự vật và hiện tượng của tự nhiên và xã hội đều có lịch sử của mình, tức là có nguồn gốc phát sinh, có quá trình vận động phát triển và tiêu vong. Quy trình phát triển lịch sử biểu hiện toàn bộ tính cụ thể của nó, với mọi sự thay đổi, những bước quanh co, những cái ngẫu nhiên, những cái tất yếu, phức tạp, muôn hình muôn vẻ, trong các hoàn cảnh khác nhau và theo một trật tự thời gian nhất định. Đi theo dấu vết của lịch sử chúng ta sẽ có bức tranh trung thực về bản thân đối tượng nghiên cứu. Phương pháp lịch sử yêu cầu làm rõ quá trình phát triển cụ thể của đối tượng, phải nắm được sự vận động cụ thể trong toàn bộ tính phong phú của nó, phải bám sát sự vật, theo dõi những bước quanh co, những ngẫu nhiên của lịch sử, phát hiện sợi dây lịch sử của toàn bộ sự phát triển. Từ cái lịch sử chúng ta sẽ phát hiện ra cái quy luật phát triển của đối tượng.Tức là tìm ra cái lôgíc của lịch sử, đó chính là mục đích của mọi hoạt động nghiên cứu khoa học. b. Phương pháp lôgíc Nếu phương pháp lịch sử là nhằm diễn lại toàn bộ tiến trình của lịch sử thì phương pháp lôgíc nghiên cứu quá trình phát triển lịch sử, nghiên cứu các hiện tượng lịch sử trong hình thức tổng quát, nhằm mục đích vạch ra bản chất quy luật, khuynh hướng chung trong sự vận động của chúng. Do đó phương pháp lôgíc có những đặc điểm sau: Phương pháp lôgíc nhằm đi sâu tìm hiểu cái bản chất, cái phổ biến, cái lặp lại của các hiện tượng. Muốn vậy, nó phải đi vào nhiều hiện tượng, phân tích, so sánh, tổng hợp…để tìm ra bản chất của hiện tượng. Nếu phương pháp lịch sử đi sâu vào cả những bước đường quanh co, thụt lùi tạm thời của lịch sử, thì phương pháp lôgíc lại có thể bỏ qua những bước đường đó, mà chỉ nắm lấy bước phát triển tất yếu của nó, nắm lấy cái xương sống phát triển của nó, tức là nắm lấy quy luật của nó. Như Anghen đã nói: lôgíc không phải là sự phản ánh lịch sử một cách đơn thuần, mà là sự phản ánh đã được uốn nắn lại nhưng uốn nắn theo quy luật mà bản thân quá trình lịch sử đem lại. Khác với phương pháp lịch sử là phải nắm lấy từng sự việc cụ thể, nắm lấy không gian, thời gian, tên người, tên đất…cụ thể, phương pháp lôgíc lại chỉ cần đi sâu nắm lấy những nhân vật, sự kiện, giai đoạn điển hình và nắm qua những phạm trù quy luật nhất định. Thí dụ, trong khi viết Tư bản luận, Mác có thể đi ngay vào giai đoạn phát triển điển hình cao nhất của lịch sử lúc đó là xã hội tư bản. Khi phát hiện ra được quy luật cơ bản của chủ nghĩa tư bản là quy luật thặng dư giá trị, tức là nắm được sâu sắc các giai đoạn điển hình, thì từ đó có thể dễ dàng tìm ra các quy luật phát triển của các xã hội trước tư bản chủ nghĩa, mà không nhất thiết phải đi từ giai đoạn đầu của lịch sử xã hội loài người. Nhờ những đặc điểm đó mà phương pháp lôgíc có những khả năng riêng là: Phương pháp lôgíc giúp chúng ta nhìn nhận ra cái mới. Bởi vì, lôgíc là sự phản ánh của thế giới khách quan vào ý thức con người, mà thế giới khách quan thì không ngừng phát triển, cái mới luôn luôn nảy sinh. Do luôn luôn chú ý đến cái phổ biến, cái bản chất mà tư duy lôgíc dễ nhìn thấy những bước phát triển nhảy vọt và thấy cái mới đang nảy sinh và phát triển như thế nào. Đặc điểm của cái mới là nó khác về chất với cái cũ. Mặc dù là hình thức thì chưa thay đổi, nhưng chất mới đã nảy sinh. Do thấy được mầm mống của cái mới mà phương pháp lôgíc có thể giúp ta thấy được hướng đi của lịch sử,nhằm chỉ đạo thực tiễn, cải tạo thế giới. Phương pháp lôgíc còn có ưu điểm là giúp chúng ta tác động tích cực vào hiện thực, nhằm tái sản sinh ra lịch sử ở một trình độ cao hơn, nghĩa là chủ động cải tạo, cải biến lịch sử, nhờ đó nắm được những quy luật khách quan đó. Cụ thể hiện nay, một số xí nghiệp quốc doanh được cổ phần hoá đã giúp công nhân có thể trở thành người vừa sản xuất, vừa làm chủ xí nghiệp, lại cải thiện nhanh chóng được đời sống. Nhà nước đã chủ động tác động tới quá trình đó, đưa lịch sử tiến lên. c. Tính thống nhất giữa phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc Trên thực tế công tác nghiên cứu theo phương pháp biện chứng mácxít, không bao giờ có phương pháp lịch sử hay phương pháp lôgíc thuần tuý tách rời nhau, mà là trong cái này có cái kia, hai cái thâm nhập vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Giới hạn giữa chúng chỉ là tương đối. Cụ thể, phương pháp lịch sử tuy phải theo sát tiến trình phát triển của lịch sử của sự vật hiện tượng, diễn lại những bước quanh co, ngẫu nhiên, thụt lùi tạm thời của quá trình phát triển hiện thực, nhưng không phải là miêu tả lịch sử đó một cách kinh nghiệm chủ nghĩa, mà là miêu tả theo một sợi dây lôgíc nhất định của sự phát triển lịch sử; không phải miêu tả lịch sử một cách mù quáng, mà là phát triển một cách có quy luật. Cũng vậy, phương pháp lôgíc tuy không nói đến những chi tiết lịch sử, những bước đường quanh co, ngẫu nhiên của lịch sử đối tượng, nhưng không phải vì thế mà nó bỏ qua việc nghiên cứu lịch sử cụ thể của đối tượng. Phương pháp lôgíc là sự phản ánh cái chủ yếu được rút ra từ trong lịch sử sự vật, và làm cho cái chủ yếu ấy thể hiện được bản chất của quá trình lịch sử. Tóm lại, phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc có tính thống nhất và cũng có mục đích thống nhất là cùng nhằm phơi bày rõ chân lý khách quan của sự phát triển lịch sử, nên trong công tác nghiên cứu, tổng kết khoa học, chúng ta không chỉ vận dụng một phương pháp riêng rẽ nào, vì thực ra chúng chỉ là hai mặt biểu hiện khác nhau của phương pháp biện chứng mácxít mà thôi. Tuy vậy, trong công tác nghiên cứu chúng ta vẫn cần chú ý đến tính độc lập tương đối của hai phương pháp này như đã nói ở trên. KẾT LUẬN Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ đã góp phần thúc đẩy công tác nghiên cứu khoa học ngày càng trở nên sôi nổi hơn và cấp thiết hơn trên phạm vi toàn cầu. Việc càng ngày càng xuất hiện thêm nhiều phương pháp mới trong nghiên cứu khoa học đã chứng tỏ con người ngày càng có nhiều khả năng hơn để nhận thức thế giới khách quan. Khoa học và công nghệ đã trở thành động lực thúc đẩy sự tiến bộ nhân loại. Cùng với nghiên cứu khoa học hiện đại, càng ngày phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu khoa học càng được chú ý đến và nó còn được coi là một trong những nhân tố quan trọng để phát triển khoa học. Chúng ta đã biết khoa học càng phát triển bao nhiêu thì phương pháp, cách thức nghiên cứu càng đa dạng phong phú bấy nhiêu. Càng có nhiều phương pháp càng tăng khả năng lựa chọn phương pháp của người nghiên cứu, càng làm cho việc lựa chọn phương pháp có ý nghĩa quan trọng hơn cả về mặt nhận thức khoa học lẫn hiệu quả kinh tế. Phương pháp nói chung đóng vai trò chủ đạo trong nghiên cứu khoa học công nghệ. Phương pháp cụ thể gắn với các môn, lĩnh vực nghiên cứu cụ thể. Chính sự phát triển của khoa học, kỹ thuật ngày càng nảy sinh nhiều phương pháp cụ thể khác nhau để nghiên cứu cùng một đối tượng. Do vậy sẽ là sai lầm nếu quá nhấn mạnh một phương pháp đặc thù, cụ thể nào đó trong nghiên cứu.Vì vậy chúng ta phải có một cái nhìn khách quan về các phương pháp nghiên cứu khoa học cũng như phải có một phương pháp luận đúng đắn, để từ đó biết áp dụng một cách khoa học và chính xác các phương pháp nghiên cứu khoa học vào mỗi đối tượng khác nhau và để phục vụ cho các mục tiêu nghiên cứu khác nhau. TÀI LIỆU THAM KHẢO Vũ Cao Đàm, Phương pháp luận nghiên cứu khoa học (Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật,2003). Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh- Bộ môn khoa học luận, Đề cương bài giảng môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học. Phạm Viết Vượng, Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục( Nhà xuất bản giáo dục, 1997). Văn Tạo, Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc( Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia- Viện Sử học, 1995).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

da282_0257_4613.doc

Thiết Kế Và Triển Khai Nghiên Cứu Định Tính Trong Nghiên Cứu Khoa Học

Hiện nay, nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng đã là những cụm từ quen thuộc với những người làm nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, giữa 2 phương pháp nghiên cứu này, tồn tại những đặc trưng riêng với những nghiên cứu khoa học khác nhau. Để học viên có thể phân biệt giữa 2 phương pháp và đặc biệt là sử dụng thuần thục phương pháp định tính trong nghiên cứu khoa học, Viện Social Life tổ chức khóa “Thiết kế và triển khai nghiên cứu định tính trong nghiên cứu khoa học.

– – – – BiếHiểVậPhân tích: Học viên có thể phân tích (analyze) dữ liệu đề tài nghiên cứu ứng dụng phương pháp nghiên cứu định tính. n dụng: Học viên có thể xây dựng (create) đề cương nghiên cứu và tiến thành thu thập, phân loại (arrange) thông tin cho một đề tài cụ thể theo phương pháp nghiên cứu định tính. u: Học viên có thể diễn giải (interpret) dữ liệu từ việc thu thập và phân tích dữ liệu định tính t: Học viên có thể nêu đại ý (outline) về quá trình nghiên cứu định tính là gồm những nội dung gì, cách sử dụng phần mềm Nvivo trong phân tích dữ liệu.

– Viện trưởng Viện Social Life

– Nguyên Viện trưởng Viện Phát triển chiến lược – Đại học Thủ Dầu Một. – Nguyên Phó Giám đốc Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. – Nguyên Phó trưởng khoa Nhân học, Trưởng nhóm Nghiên cứu Đời sống xã hội – Trường Đại học Khoa Học Xã hội & Nhân Văn. – Nghiên cứu viên chính thức của hợp phần định tính chương trình nghiên cứu Những cuộc đời trẻ thơ (Young lives) của đại học Oxford, Anh Quốc tại Việt Nam.

– Kiến thức: Cung cấp cho học viên những kiến thức nền tảng về phương pháp nghiên cứu định tính như: Bản chất của phương pháp nghiên cứu định tính, phương pháp thu thập dữ liệu định tính, quá trình nghiên cứu và phân tích dữ liệu, các tiêu chí đánh giá, việc kết hợp nghiên cứu giữa định tính và định lượng. – Kỹ năng: Ứng dụng cơ bản tin học vào nghiên cứu định tính.

– Các nghiên cứu viên có sự quan tâm và có nhu cầu thực hiện nghiên cứu khoa học. – Sinh viên, thạc sĩ đang làm báo cáo hoặc khóa luận tốt nghiệp. – Những người đi làm có nhu cầu muốn tìm hiểu về nghiên cứu định tính để phục vụ cho công việc.

Bản chất của nghiên cứu định tính – Khái niệm, những quan tâm chính, lý thuyết, hạn chế, điểm khác biệt giữa định tính và định lượng. 2. Quá trình nghiên cứu định tính – Mô hình hóa các giai đoạn chính, mối quan hệ giữa lý thuyết, khái niệm và dữ liệu nghiên cứu. 3. Phương pháp thu thập dữ liệu định tính – Quan sát tham dự, phỏng vấn, phỏng vấn nhóm tập trung, các tài liệu văn bản. 4. Phân tích dữ liệu định tính – Phương pháp chung, phương pháp quy nạp phân tích, lý thuyết cơ bản, những thao tác cơ bản trong phân tích định tính. 5. Các tiêu chuẩn đánh giá nghiên cứu định tính – Độ tin cậy, tính giá trị, tính đáng tin cậy, tính xác thực. 6. Sự kết hợp giữa phân tích định tính và định lượng. – Nghiên cứu đa chiến lược, sự kết hợp của 2 phương pháp

Điện thoại: (028) 382 135 36

Email: lienhe@sociallife.vn

Quý anh chị đăng ký học theo biểu mẫu bên dưới, sau đó trung tâm SocialLife sẽ liên lạc (qua email, điện thoại) với anh chị sớm để xác nhận thông tin và thông báo lịch, địa điểm học. Nếu sau 1 ngày mà anh chị vẫn chưa nhận được thông tin xác nhận thì xin hãy email về email: lienhesociallife@gmail.com để xác nhận thông tin đăng ký.