Top 5 # Xem Nhiều Nhất Sự Khác Nhau Giữa Quân Đội Nhân Dân Và Công An Nhân Dân Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Cuocthitainang2010.com

Sứ Mệnh Của Quân Đội Và Công An Nhân Dân Là Gì?

Chiêu trò thông qua một số trang mạng để tán phát những giọng điệu, ngụy tạo hình ảnh nhằm tuyên truyền xuyên tạc, nói xấu lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch thực chất không có gì mới.

Thế nhưng trong bối cảnh chính trị hiện nay, chúng ta cần nhận thức đúng vai trò, trách nhiệm của lực lượng vũ trang; nhận thức đúng quyền và trách nhiệm của người dân, không để những kẻ cực đoan lợi dụng dân chủ, nhân quyền vi phạm pháp luật.

Trên thế giới, không có quốc gia nào không có hai lực lượng là quân đội và cảnh sát (công an).

Đó là hai lực lượng chủ yếu để bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ chính trị-nhà nước và đương nhiên cũng là bảo vệ đảng chính trị lãnh đạo cầm quyền.

Ở các nước xã hội chủ nghĩa, người giữ chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản cũng là người giữ chức vụ cao nhất về đảng trong lực lượng vũ trang.

Ở nước ta, vài năm trở lại đây, trước và sau những vụ việc “nóng” về xã hội, như vụ Formosa Hà Tĩnh gây ô nhiễm môi trường trên diện rộng ở 4 tỉnh miền Trung;

Vụ một số trạm thu phí BOT gây ách tắc giao thông (BOT Cai Lậy-Tiền Giang); vụ việc ở xã Đồng Tâm (Mỹ Đức, Hà Nội)… chính quyền địa phương phải điều động cảnh sát có vũ trang đến hiện trường nhằm ngăn ngừa kẻ xấu lợi dụng gây bất ổn định về chính trị-xã hội.

Phòng ngừa và khi cần thì trấn áp tội phạm là một việc làm bình thường theo chức năng, nhiệm vụ được giao của các lực lượng vũ trang.

Thế nhưng trên một số mạng xã hội có kẻ post bài lên nói rằng: “Bộ đội, công an đàn áp nhân dân”…

Sự khác biệt giữa đàn áp với trấn áp như thế nào?

Phải chăng có hiện tượng bộ đội, công an đàn áp nhân dân hay đây chỉ là một thủ đoạn chính trị thâm độc của các thế lực thù địch và những phần tử phản động?

Đàn áp và trấn áp tuy có điểm giống nhau về phương thức hoạt động nhưng khác nhau cơ bản về đối tượng tác động.

Đàn áp theo từ điển thì đó là hoạt động của chính quyền, thường là trong xã hội phong kiến, thực dân bằng các công cụ bạo lực, cưỡng chế đa số người dân nhằm bảo vệ chính quyền và chế độ xã hội mà họ đang nắm giữ.

Chẳng hạn người ta hay nói: Thực dân Pháp đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta một cách đẫm máu.

Trong khi đó, khái niệm trấn áp dùng để chỉ hoạt động của chính quyền hiện hữu bằng công cụ bạo lực, cưỡng chế một số nhỏ, từ cá nhân đến nhóm xã hội vi phạm pháp luật, nhằm bảo vệ trật tự xã hội.

Chẳng hạn người ta thường nói: Công an, cảnh sát trấn áp tội phạm để giữ gìn cuộc sống bình yên của nhân dân.

Như chúng ta thấy, những năm gần đây, tình hình chính trị thế giới và khu vực diễn ra phức tạp, nhiều nước lớn đã xem châu Á-Thái Bình Dương, đặc biệt Biển Đông là địa bàn “xoay trục”, là “lợi ích cốt lõi” của mình.

Nhờ có đường lối chính trị-quốc phòng đúng đắn, Việt Nam đã giữ vững ổn định chính trị xã hội; duy trì được quan hệ quốc tế dựa trên nguyên tắc hòa bình, bình đẳng cùng có lợi.

Tuy nhiên đất nước ta vẫn đang đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức.

Đại hội XII của Đảng tái khẳng định 4 nguy cơ.

Đó là: (1). Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới;

(2). Nguy cơ chống phá, “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến”, xa rời lý tưởng của Đảng, xa rời lợi ích của nhân dân và mục tiêu xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên;

(3). Nguy cơ tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tiêu cực xã hội, làm suy yếu Đảng;

(4). Nguy cơ về bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước, nhất là chủ quyền biển, đảo trước âm mưu, thủ đoạn các nước lớn”.

Trong 4 nguy cơ nói trên, trừ nguy cơ “tụt hậu xa hơn về kinh tế”, 3 nguy cơ còn lại đều có thể dẫn đến sự bất ổn xã hội ở những kịch bản khác nhau, trong đó có thể có bạo loạn, lật đổ… thay đổi chế độ.

Bởi vậy, sử dụng các công cụ bạo lực, chuyên chính đối với kẻ thù nhằm ngăn ngừa từ sớm, từ xa các nguy cơ bất ổn đối với chế độ là điều tất nhiên.

Tại Hội nghị Quân ủy Trung ương phiên họp cuối năm 2017 (ngày 15/12/2017), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương, chỉ rõ:

“Năm 2018, năm bản lề thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X, quân đội phải nắm chắc tình hình “dứt khoát không được để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”.

Quân đội nâng cao hơn nữa nhận thức về phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, ngăn chặn âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch…

“Phải đặc biệt giữ gìn, phát huy hình ảnh, uy tín của quân đội, giữ vững niềm tin yêu của nhân dân đối với quân đội”.

Nhìn lại những năm đầu thế kỷ 21, các thế lực thù địch đã từng lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Tây Nguyên gây ra bạo loạn vào năm 2001 và 2004.

Nhóm tàn quân FULRO lưu vong ở nước ngoài do Ksor Kơk đứng đầu đã tuyên truyền, dụ dỗ người dân, âm mưu thiết lập “Nhà nước Cộng hòa Đề Ga” ở Tây Nguyên.

Quy mô của vụ gây rối ở các tỉnh: Đắc Lắc, Gia Lai và Đắc Nông (ngày 10/4/2004) lên đến gần 10.000 người.

Đây là một âm mưu, hành động cực kỳ nguy hiểm, táo bạo, hòng phá hoại sự toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam.

Năm 2016, Formosa (Hà Tĩnh) gây ra ô nhiễm môi trường trên diện rộng thuộc 4 tỉnh miền Trung.

Sau khi vụ việc được phát hiện, Formosa đã nhận lỗi, bồi thường thiệt hại và sửa chữa các vi phạm.

Thế nhưng ở một số địa bàn thuộc Hà Tĩnh và Nghệ An sau một năm vụ việc được giải quyết, những kẻ cực đoan về chính trị đã huy động, thậm chí ép buộc người dân đi khiếu kiện “đòi bồi thường”, gây mất trật tự an ninh, ách tắc giao thông trên Quốc lộ 1A…

Chính quyền đã buộc phải điều động lực lượng vũ trang để xử lý. Có nơi, lực lượng vũ trang đã phải mang theo cả lá chắn và khí tài chuyên biệt để phòng ngừa những phần tử cực đoan sử dụng bạo lực.

Trong những tình huống như vậy, chính quyền không thể không huy động các lực lượng vũ trang tham gia xử lý, tuyên truyền, giải thích cho nhân dân và trấn áp những kẻ cầm đầu.

Thực tế cho thấy, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn chú ý giáo dục cán bộ, chiến sĩ quân đội, công an về mối quan hệ gắn bó với nhân dân.

Nhất là những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối với Quân đội ta, đó là:

” Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội.

Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng“;

Với Công an ta, đó là:

” Đối với tự mình phải cần, kiệm, liêm, chính. Đối với đồng sự phải thân ái, giúp đỡ. Đối với Chính phủ phải tuyệt đối trung thành.

Đối với nhân dân phải kính trọng, lễ phép. Đối với công việc phải tận tụy. Đối với địch phải cương quyết, khôn khéo “.

Thiết nghĩ, trong bối cảnh chính trị ngày nay, mọi người cần nhận thức đúng vai trò, trách nhiệm của các lực lượng vũ trang; nhận thức đúng quyền và trách nhiệm của người dân, không để những kẻ cực đoan lợi dụng dân chủ, nhân quyền vi phạm pháp luật.

Các lực lượng vũ trang của chúng ta ngày nay bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc còn có một sứ mệnh lịch sử không kém phần quan trọng, đó là bảo vệ chế độ xã hội, bảo vệ Nhà nước và bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sự Khác Nhau Giữa Thẻ Căn Cước Công Dân Và Cmnd? 2022

Từ ngày 01/01/2016, khi Luật Căn cước công dân 2014 bắt đầu có hiệu lực, người dân tại các thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, chúng tôi đua nhau đi đổi Thẻ Căn cước công dân, đổi thẻ chứng minh nhân dân (CMND) 12 số.

Tiêu chí

CMND 12 số

Thẻ căn cước công dân

Định nghĩa

CMND (nói chung – không phân biệt 9 số hoặc 12 số) là một loại giấy tờ tùy thân của công dân do cơ quan Công an có thẩm quyền chứng nhận về những đặc điểm riêng và nội dung cơ bản của mỗi công dân trong độ tuổi do pháp luật quy định, nhằm bảo đảm thuận tiện việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của công dân trong đi lại và thực hiện các giao dịch trên lãnh thổ Việt Nam.

(Căn cứ Điều 1 Nghị định 05/1999/NĐ-CP)

Căn cước công dân là thông tin cơ bản về lai lịch, nhận dạng của công dân.

(Căn cứ Khoản 1 Điều 3 Luật căn cước công dân 2014)

Kích cỡ, hình dạng thẻ

– Hình chữ nhật.

– Chiều dài 85,6mm.

– Chiều rộng 53,98mm.

(Căn cứ Khoản 1 Điều 3 Thông tư 57/2013/TT-BCA)

– Hình chữ nhật.

– Bốn góc được cắt tròn.

– Chiều dài 85,6 mm.

– Chiều rộng 53,98 mm.

– Độ dày 0,76 mm.

(Căn cứ Khoản 1 Điều 3 Thông tư 61/2015/TT-BCA)

Nội dung mặt trước của thẻ

– Hình Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

– Ảnh của người được cấp Chứng minh nhân dân cỡ 20 x 30 mm.

– Có giá trị đến (ngày, tháng, năm).

– Tiêu ngữ: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.

– Chữ “Chứng minh nhân dân”.

– Số CMND (12 số)

– Họ và tên khai sinh.

– Họ và tên gọi khác.

– Ngày tháng năm sinh.

– Giới tính.

– Dân tộc.

– Quê quán.

– Nơi thường trú.

(Căn cứ Khoản 2 Điều 3 Thông tư 57/2013/TT-BCA)

– Hình Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

– Ảnh của người được cấp thẻ Căn cước công dân.

– Có giá trị đến.

– Tiêu ngữ: CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM, Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.

– Dòng chữ “CĂN CƯỚC CÔNG DÂN”.

– Số.

– Họ và tên.

– Ngày, tháng, năm sinh.

– Giới tính.

– Quốc tịch.

– Quê quán.

– Nơi thường trú.

(Căn cứ Khoản 2 Điều 3 Thông tư 61/2015/TT-BCA)

Nội dung mặt sau của thẻ

– Mã vạch 02 chiều.

– Ô trên: vân tay ngón trỏ trái.

– Ô dưới: vân tay ngón trỏ phải.

– Đặc điểm nhận dạng.

– Ngày tháng năm cấp CMND

– Chức danh người cấp, ký tên và đóng dấu.

(Căn cứ Khoản 2 Điều 3 Thông tư 57/2013/TT-BCA)

– Trên cùng là mã vạch hai chiều;

– Ô trên: vân tay ngón trỏ trái.

– Ô dưới: vân tay ngón trỏ phải của người được cấp thẻ Căn cước công dân.

– Đặc điểm nhân dạng của người được cấp thẻ.

– Ngày, tháng, năm cấp thẻ Căn cước công dân.

– Họ, chữ đệm và tên, chức danh, chữ ký của người có thẩm quyền cấp thẻ và dấu có hình Quốc huy của cơ quan cấp thẻ Căn cước công dân.

(Căn cứ Khoản 2 Điều 3 Thông tư 61/2015/TT-BCA)

Năm cấp

Năm 2012

Năm 2016

Thời hạn sử dụng

15 năm, kể từ ngày cấp, đổi, cấp lại.

(Căn cứ Khoản 2 Điều 4 Thông tư 57/2013/TT-BCA)

Được tính theo độ tuổi phải đổi thẻ như sau:

Thẻ Căn cước công dân phải được đổi khi công dân đủ 25 tuổi, đủ 40 tuổi và đủ 60 tuổi.

(Căn cứ Điều 5 Thông tư 61/2015/TT-BCA)

Thời gian thực hiện thủ tục

Tại thành phố, thị xã:

– Cấp mới, cấp đổi: không quá 07 ngày làm việc.

– Cấp lại: không quá 15 ngày làm việc.

Tại các huyện miền núi vùng cao, biên giới, hải đảoCác khu vực còn lại: :

Không quá 20 ngày làm việc.

Không quá 15 ngày làm việc.

(Căn cứ Khoản 2 Điều 1 Nghị định 106/2013/NĐ-CP)

Tại thành phố, thị xã:

– Cấp mới, cấp đổi: không quá 07 ngày làm việc.

– Cấp lại: không quá 15 ngày làm việc.

Tại các huyện miền núi vùng cao, biên giới, hải đảo:

Không quá 20 ngày làm việc.

Các khu vực còn lại:

Không quá 15 ngày làm việc.

(Căn cứ Điều 25 Luật căn cước công dân 2014)

Vật liệu làm thẻ

Chất liệu nhựa, ngoài cùng của 02 mặt có phủ lớp màng nhựa mỏng trong suốt.

(Căn cứ Khoản 3 Điều 3 Thông tư 57/2013/TT-BCA)

Chất liệu nhựa, ngoài cùng của hai mặt có phủ lớp màng nhựa mỏng trong suốt.

(Căn cứ Khoản 4 Điều 3 Thông tư 61/2015/TT-BCA)

Mức phí cấp mới, đổi, cấp lại

Trường hợp thu nhận ảnh trực tiếp (ảnh thu qua camera)

– Cấp mới: 30.000 đồng.

– Cấp đổi: 50.000 đồng.

– Cấp lại: 70.000 đồng.

Trường hợp thu nhận ảnh gián tiếp (chưa tính tiền chụp ảnh)

– Cấp mới: 20.000 đồng.

– Cấp đổi: 40.000 đồng.

– Cấp lại: 60.000 đồng.

(Căn cứ Điều 2 Thông tư 155/2012/TT-BTC)

– Đổi: 50.000 đồng.

– Cấp lại: 70.000 đồng.

(Căn cứ Khoản 1 Điều 6 Thông tư 170/2015/TT-BTC)

Sự Khác Nhau Giữa Dân Chủ Và Tự Do

Hai khái niệm Tự do (Liberty) và Dân chủ (Democracy) xưa nay thường được hiểu là tương tự, hoặc ít ra thì cũng rất gần nhau, theo hướng giải phóng con người. Quả thực, trong các nước dân chủ phương Tây thì hai yếu tố ấy cũng bện chặt vào nhau để tạo nên một nền Dân chủ – Tự do (liberal democracy). Hầu hết chúng ta đều hiểu Dân chủ và Tự do là hai yếu tố biến thiên cùng chiều như một cặp bài trùng. Vì thế cũng không ai mổ xẻ tách bạch sự khác nhau giữa hai khái niệm ấy làm gì.

Song thực tiễn chính trị đã khiến cho hai từ Dân chủ và Tự do buộc phải được hiểu một cách chính xác hơn (nhưng vẫn cùng chiều), rồi thật bất ngờ, dưới bàn tay nhào nặn khéo léo của một số nhà chính trị ở một số quốc gia, Dân chủ và Tự do không bện chặt vào nhau nữa, chẳng những rời nhau ra mà có thể còn chống lại nhau. Từ đó hình thành và phát triển những hệ thống chính trị Dân chủ – nhưng không Tự do (illiberal democracy).

“Nhiều chính quyền được bầu lên một cách dân chủ, thậm chí các chính quyền được bầu lại hoặc được tái xác nhận thông qua trưng cầu dân ý, lại càng bất chấp các giới hạn quyền lực do hiến pháp qui định và thường tước đi các quyền và những tự do căn bản của người dân”.

Sự phát hiện điều nghịch lý và khái quát thành lý luận này của Fareed Zakaria, một nhà báo, nhà triết học chính trị với vốn sống chính trị phong phú, thuộc số những nhà trí thức hàng đầu có nhiều ảnh hưởng nhất hiện nay [1], theo tôi là một phát kiến rất lớn, mặc dù nhiều học giả của thế kỷ 18 và 19 cũng đã bắt đầu “nhìn thấy trong Dân chủ một sức mạnh có thể gây tổn hại cho Tự do”.

Thật vậy, Dân chủ trước hết và chủ yếu được hiểu là quyền làm chủ của dân, là sự can dự của dân vào quá trình hình thành bộ máy cai trị. Khi một quốc gia tổ chức các cuộc bầu cử đa đảng, có cạnh tranh, bộ máy cầm quyền do lá phiếu của người dân bầu ra, không ai áp đặt, chúng ta gọi quốc gia đó là dân chủ.

Còn Tự do, theo nghĩa truyền thống và thường được hiến định, là các quyền tự nhiên, bất khả nhượng nên còn gọi là Tự do hiến định (constitutional liberalism), nhằm bảo vệ tính độc lập tự chủ và nhân phẩm của con người trước những chèn ép về chính trị, xã hội, tôn giáo và những cái khác.

Nếu muốn coi Dân chủ cũng là biểu hiện của Tự do thì đó là Tự do chính trị, còn quyền Tự do hiến định chính là Tự do dân sự; một đằng tạo ra chính quyền, một đằng không ngừng chỉnh lý, khống chế chính quyền ấy. Vì Tự do là nền tảng, Dân chủ là thượng tầng nên quan hệ giữa Tự do và Dân chủ là quan hệ hầu như một chiều: Chủ nghĩa Tự do hiến định dẫn đến Dân chủ, nhưng Dân chủ thì dường như không mang lại chủ nghĩa tự do hiến định. Gốc nào thì quả ấy, cho nên “Cái làm thành nét đặc trưng và tạo ra sự khác biệt giữa các chính quyền tại châu Âu và Bắc Mỹ với các chính quyền khác trên toàn thế giới không phải là dân chủ mà chính là chủ nghĩa tự do hiến định. Biểu tượng tốt nhất của “Mô hình phương Tây” không phải là hệ thống bầu cử đại chúng mà chính là vị quan tòa không thiên vị” (Zakaria).

Nếu vội vàng tạo lập Dân chủ nơi chính quyền trong khi chưa giành được những quyền tự do dân sự trong dân chúng thì đó là thứ Dân chủ không có gốc, nó dễ dàng trở thành phản bội.

Chúng ta vẫn thường nghĩ một cách đạo đức và đơn giản rằng: sự cảnh giác chỉ cần khi chính quyền đối lập với nhân dân, chứ khi nhân dân đã tự gánh vác trách nhiệm thì sự thận trọng là không còn cần thiết. Xin thưa, Alexandr Lukashenko sau khi được bầu làm Tổng thống Belarus một cách dân chủ với đa số phiếu áp đảo trong cuộc bầu cử tự do năm 1994, khi được hỏi về việc giới hạn quyền lực của ông ta, thì chính nhà độc tài này đã tuyên bố “Chế độ độc tài sẽ không có ở đây. Tôi thuộc về nhân dân, vì vậy tôi sẽ cống hiến vì nhân dân!”.

Cũng đừng tưởng rằng khi người cầm quyền do dân bầu ra mà chống lại tự do của dân thì dân sẽ không bầu nữa. Trái lại có thể dân vẫn bầu, mà còn bầu với số phiếu cao nữa kia! Bởi nếu những quyền tự do hiến định không được thực hiện thì những thủ thuật để chiếm lòng dân, để tạo sức mạnh của số đông, để dân lại tiếp tục bầu là điều không khó khăn gì.

Đối với pháp trị, lòng tin dễ thành thuốc độc, bởi tinh thần căn bản của luật pháp là dựa trên sự nghi ngờ. Khi đã cố xây dựng lòng tin làm cẩm nang, làm tiên đề để điều hành xã hội thì luật pháp sẽ bị vận dụng méo mó, sẽ mất hiệu năng và đó là mầm mống bành trướng của quyền lực tuyệt đối.

Sau một diễn tiến Dân chủ thường tạo được lòng tin, nhưng lòng tin lại gây mất cảnh giác nơi dân chúng và là mảnh đất phát sinh lạm quyền, rồi sự lạm quyền sẽ quay lại chống Tự do. Con đường Dân chủ chống lại Tự do cứ khép một đường vòng như vậy. Đừng bao giờ quên rằng khi có quyền trong tay người ta có thể biến thành một người hoàn toàn khác. Chỉ trong một xã hội có Tự do dân sự vững chắc thì sự tha hoá của quyền lực mới được kiềm chế và đường vòng phản hồi chống dân chủ kia mới có khả năng ngăn chặn. Biết đặt sự nghi ngờ lên trước để xử lý thì lòng tin sẽ đến theo sau.

Bằng con mắt tinh tường và với một quan điểm lý luận có hệ thống, Zakaria đã điểm mặt những vùng địa lý chính trị, nơi nào có Dân chủ-Tự do điển hình, nơi nào tuy chưa thật dân chủ nhưng lại có Tự do, ngược lại nhiều nơi chưa có Tự do nhưng lại được xếp vào nước có Dân chủ…

Đặc biệt ông đã nhận ra sự trỗi dậy mạnh mẽ của xu thế Dân chủ phi Tự do (illiberal democracy), như một lối thoát được ngụy trang rất khôn ngoan của những chính quyền cố giữ cho được sự cai trị độc đoán trước một trào lưu dân chủ toàn cầu không thể chống lại. Những chính quyền ở Peru, Palestin, Sierra Leon, Slovakia, Kazakstan, Kyrgystan, Pakistan, Belarus,… và những nhân vật chính trị như Boris Yeltsin, Alexandr Lukashenko, Alberto Fujimori, Carlos Menem,… là những ví dụ điển hình (khi ấy là năm 1997, sau này phải kể thêm Vladimir Putin). Theo Zakaria thì lúc ấy một nửa số các quốc gia đang dân chủ hoá lại là các chế độ Dân chủ phi tự do (illiberal democracy).

Trước sự trỗi dậy của xu thế có Dân chủ nhưng không có Tự do như thế, dân Việt Nam phải làm gì để khỏi sa vào?

Chính trị cũng như thị trường, chẳng qua cũng một Quy luật cung cầu chi phối cả. Có “cầu” ắt có “cung”, và thế nào cũng xuất hiện bọn “cung đểu” (bọn làm hàng giả), quy luật cạnh tranh sinh tồn vốn tiềm tàng tính “bất thiện” như thế. Nhân dân cần Dân chủ và Tự do ư? (và nghĩ rằng hai thứ đó giống nhau), thì sẽ có giới cầm quyền đứng ra nhận thoả mãn nhu cầu ấy. Nhưng đối với giới cầm quyền thì món hàng Dân chủ có “giá thành” rẻ hơn lại ít nguy hiểm hơn so với Tự do, nên họ cứ trưng cái nửa Dân chủ ra trước đã. Nếu dân là người tiêu dùng hồn nhiên, gặp kẻ tiếp thị có nghề là “bập” vào ngay. Thế là dân hoan nghênh, dân bầu ngay, tín nhiệm ngay, rất tự giác, rất dân chủ.

Nhưng như thế là “thượng đế” bị sa bẫy rồi, cái bẫy có tên là Dân chủ phi Tự do. Khi cái ghế quyền lực đã “đúc bê tông” thì số phận cái nửa Tự do kia sẽ thế nào là chuyện “hạ hồi phân giải”!

Chỉ khi nào dân trí đã khôn, đã từng trải, mới biết “nắm đằng chuôi”, mới biết khước từ món “mì chính trị ăn liền” thường rất đậm đà màu sắc địa phương, mà đòi cho được quyền Tự do hiến định, tức Tự do dân sự như dân các nước văn minh được hưởng. Điều tưởng như rất bình dị này mới chính là sản phẩm quốc tế chất lượng cao, đã được lịch sử kiểm định. Người khôn ngoan không đòi ngay con cá mà cố giành lấy chiếc cần câu chính là như vậy.

Với những độc giả không có nhu cầu tìm hiểu rộng và chi tiết, chỉ cần nắm được luận điểm chính và những ví dụ điển hình, tôi nghĩ đọc bài tiểu luận “Sự trỗi dậy của các chế độ Dân chủ phi tự do” là thích hợp, trong đó tác giả trình bày ý tưởng một cách ngắn gọn, súc tích và sắc xảo.

Xin chân thành cảm ơn cả hai dịch giả của hai tác phẩm nói trên.

Tháng 5-2009

[ 1] Fareed Zakaria là một nhà báo Mỹ gốc Ấn Độ. Ông sinh năm 1964 tại thành phố Mumbai (tên cũ là Bombay) thuộc bang Maharashtra – Ấn Độ, trong một gia đình Hồi giáo. Cha ông là Rafiq Zakaria (1920-2005), một học giả Hồi giáo và là một chính trị gia của Đảng Quốc Đại Ấn Độ (Indian National Congress). Mẹ ông, Fatima Zakaria, đã có thời là biên tập viên của tuần báo Times of India (Thời báo Ấn độ). Sau khi học trung học tại Ấn Độ, Zakaria du học tại Hoa Kỳ, tốt nghiệp Cử nhân (B.A.) tại Đại học Yale và lấy bằng tiến sĩ chính trị học (Ph.D. in Political Science) tại Đại học Havard – nơi đây ông được hướng dẫn bởi các vị giáo sư chính trị học nổi tiếng như Samuel P. Huntington và Stanley Hoffmann. Ông nhập quốc tịch Hoa Kỳ vào năm 2001.

Sau khi tham gia một công trình nghiên cứu của Đại học Havard về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, Zakaria trở thành biên tập viên điều hành (managing editor) của tạp chí Foreign Affairs (Các vấn đề đối ngoại) và giữ chức vụ này trong 7 năm (từ năm 1993 đến năm 2000). Tạp chí này là một tập san chuyên đề bàn về các quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, được phát hành hai tháng một lần bởi Hội đồng về Các Quan hệ Đối ngoại (Council on Foreign Relations, CFR). Tháng 10 năm 2000, ông được bổ nhiệm làm tổng biên tập (editor) của tạp chí Newsweek International (tức ấn bản quốc tế của tạp chí Newsweek). Với chức vụ này, ông chịu trách nhiệm trông nom các ấn bản tiếng Anh ở hải ngoại của tờ tạp chí nổi tiếng này, được phát hành khắp châu Âu, châu Á, châu Phi và vùng Trung Đông với trên 3 triệu ruỡi độc giả. Ngoài nhiệm vụ đó, ông còn thường xuyên viết bài cho các tờ báo nổi tiếng ở Mỹ như New York Times, Wall Street Journal, Washington Post, New Republic, v.v… Ông còn cộng tác với nhiều đài truyền hình nổi tiếng như PBS (2005-2007), ABC (2002-2007) và CNN (từ tháng 6 năm 2008). Không chỉ là nhà báo, Zakaria còn là tác giả của một số cuốn sách nổi tiếng như: The Future of Freedom (Tương lai của Tự do, 2003) và The Post-American World (Thế giới hậu – Hoa Kỳ, 2008).

Năm 1999, tạp chí Esquire vinh danh ông là “một trong 21 nhân vật quan trọng của thế kỷ 21″. Năm 2007 ông được các tạp chí Foreign Policy và Prospect xếp vào danh sách 100 nhà trí thức hàng đầu được nhiều người biết đến của thế giới. Tháng 1 năm 2009, tạp chí Forbes xếp Zakaria vào danh sách 25 nhà tự do (liberals) có ảnh hưởng nhất trong giới truyền thông Hoa Kỳ.

Bài báo “Sự trỗi dậy của nền dân chủ phi-tự do” (The Rise of Illiberal Democracy) công bố trên tạp chí Foreign Affairs vào tháng 11 năm 1997 là tác phẩm có ảnh hưởng lớn nhất của Zakaria.

Sự Khác Nhau Giữa Trường Đại Học Công Lập Và Dân Lập Ở Việt Nam

Các khóa học của ITPlus Academy Khóa học thiết kế và lập trình web PHP chuyên nghiệp Khóa học thiết kế và lập trình Website PHP và MYSQL chuyên nghiệp

Theo định nghĩa của từ điển Bách khoa toàn thư:

Đại học công lập là trường đại học do nhà nước (trung ương hoặc địa phương) đầu tư về kinh phí và cơ sở vật chất (đất đai, nhà cửa) và hoạt động chủ yếu bằng kinh phí từ các nguồn tài chính công hoặc các khoản đóng góp phi vụ lợi, khác với đại học dân lập hoạt động bằng kinh phí đóng góp của học sinh, khách hàng và các khoản hiến tặng.

Đại học dân lập hay đại học tư thục là một cơ sở giáo dục đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, về tuyển sinh, đào tạo thì tuân theo quy chế của Bộ GD&ĐT, văn bằng có giá trị tương đương như văn bằng công lập. Là trường tư do cá nhân hoặc tổ chức trong một nước xin phép thành lập và tự đầu tư.

Hiểu sâu xa hơn, sự khác nhau giữa hai khái niệm được thể hiện ở các khía cạnh sau:

1. Cơ sở vật chất

Cơ sở vật chất trường Đại học dân lập thường khang trang và hiện đại hơn so với công lập. Một phần vì vốn do dân nên lãnh đạo trường Dân lập hoàn toàn có quyền quyết định đối với việc thay mới, sửa chữa, nâng cấp hoặc xây dựng bổ sung các tòa nhà mới phục vụ học tập.

Vì các trường Đại học công lập phụ thuộc vốn của nhà nước nên việc xin cấp vốn phải thông qua nhiều bước và khá phức tạp.

Đây là một sự khác nhau cơ bản giữa trường đại học công lập và đại học dân lập

Đại học dân lập Phương Đông

Không giống những trường đại học công lập, đại học dân lập không nhận được sự hỗ trợ về vốn của Nhà nước, nguồn tài chính để hoạt động của họ là từ học phí của sinh viên học tại trường, khách hàng và các khoản hiến tặng. Học phí tại các trường này có xu hướng lớn hơn nhiều so với trường đại học công lập.

Nhằm mục đích thu hút được nhiều sinh viên, có thể tăng sức cạnh tranh với các trường Công lập, các trường Đại học dân lập ngoài trang thiết bị hiện đại, còn nỗ lực để thay đổi chương trình học theo hướng thực tế hơn. Nhiều trường dân lập còn tạo hệ đào tạo liên kết với các trường đại học, cao đẳng nước ngoài, để giúp sinh viên có được tấm bằng quốc tế ngay khi ra trường. Không những thế các bạn còn được tiếp xúc với môi trường học quốc tế ngay những năm còn ngồi trên ghế nhà trường. Vì thế các bạn sẽ có cái nhìn cởi mở hơn đối với các vấn đề được học.

Một điểm khác nhau nữa giữa trường Đại học công lập và dân lập chính là cơ hội việc làm. Trong trường hợp các ứng viên không có sự khác biệt nhiều trong quá trình phỏng vấn, thông thường các doanh nghiệp trong nước sẽ ưu tiên các ứng viên đến từ các trường công lập Top đầu. Tuy nhiên các công ty nước ngoài thì lại không quan trọng vấn đề trường đại học công lập hay Đại học dân lập, mà quan trọng vẫn là thực lực của ứng cử viên. Vì vậy các bạn đã và đang học trường dân lập không nên quá lo lắng về vấn đề này.

Đại học Bách Khoa HN

5. Tiêu chuẩn nhập học

Trường công lập thi tuyển rất gắt gao thông qua kỳ thi quốc gia. Trường dân lập thì có thể thông qua xét tuyển học bạ, và điểm thi THPT để tiếp nhận thí sinh đầu vào. Đây cũng là điểm khác nhau cơ bản giữa trường công và trường tư.

Nhiều phụ huynh cũng như nhiều bạn sinh viên đều nhất trí cho rằng, các trường dân lập chủ yếu có nguồn sinh viên chất lượng kém hơn, lười học và ham chơi hơn, khả năng tư duy không nhanh nhạy so với các bạn trường công lập.

Tuy nhiên, trên thực tế, có rất nhiều bạn sinh viên học các trường đại học dân lập lại thành đạt hơn so với các bạn trường đại học công lập. Đa phần nguyên nhân vì các bạn ấy không chỉ biết có việc học, mà còn biết rất nhiều kiến thức thực tế, do trải nghiệm sống, do đi làm thêm từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Điều mà nhiều bạn sinh viên công lập chỉ biết chăm chăm đèn sách không thể có được.

Dù lựa chọn của bạn là gì, hãy luôn cố gắng hết mình, thử sức ở mọi lĩnh vực, và tiếp xúc với thực tế ngay từ khi còn sớm, chắc chắn bạn sẽ thu được thành quả, dù bạn là sinh viên đại học công lập hay dân lập.

Ban Truyền thông ITPlus