Top 11 # Xem Nhiều Nhất Tại Sao Giải Quyết Việc Làm Đang Là Vấn Đề Xã Hội Gay Gắt Ở Nước Ta Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Cuocthitainang2010.com

Tiếp Cận Liên Ngành Trong Việc Nghiên Cứu Những Vấn Đề Xã Hội

Tiếp cận liên ngành trong việc nghiên cứu những vấn đề xã hội: Những quan điểm lý thuyết của Mỹ  về thời kỳ chuyển tiếp từ niên thiếu đến trưởng thành

Tác giả: Mary Elizabeth Collins, A.M., Ph.D. Giáo sư, Khoa Công tác Xã hội, Trường Đại học Boston Học giả Chương trình Fulbright, Trường ĐHKHXHNV, ĐHQG-HCM

Người dịch: Phạm Thị Ly (2012)

Tóm tắt

Từ khóa:  mô hình sinh thái học, chuyển tiếp đến tuổi trưởng thành, lý thuyết gắn kết, lý thuyết mạng xã hội, lý thuyết lên chương trình

Trọng tâm của nghề công tác xã hội là trình bày những vấn đề xã hội mà những vấn đề ấy thì thường đòi hỏi cái nhìn liên ngành để có thể tiếp cận một cách thấu đáo, nhờ đó có thể hiểu đúng và xây dựng những cách can thiệp có hiệu quả.  Một trọng tâm quá hẹp, chú trọng chỉ một bộ khung chuyên ngành, sẽ đem lại một bức tranh thiên lệch cao độ về các hiện tượng xã hội. Hơn thế nữa, mô hình sinh thái học (Garbarino, 1982) là một bộ khung được sử dụng rộng rãi trong ngành công tác xã hội.  Mô hình sinh thái học chiếm một vị trí trung tâm trong những phân tích về công tác xã hội như một phương tiện khảo sát mối quan hệ qua lại giữa cá nhân và các hệ thống xã hội, tổ chức và bối cảnh văn hóa.

Thuyết gắn kết [1].  Độc lập về văn hóa hay về môi trường xã hội gần như bao giờ cũng cho thấy mối quan hệ giữa trẻ em và một người lớn có vai trò là người cho đi sự chăm sóc thương yêu, thường là cha mẹ, có tầm quan trọng nổi bật trong việc phát triển nhân cách. Thuyết gắn kết (e.g., Bowlby, 1969; Ainsworth et al., 1978) có một vai trò to lớn để hiểu sự phát triển của trẻ em. Lý thuyết này cũng rất quan trọng để hiểu những khó khăn mà trẻ em phải đối mặt khi sự gắn kết của đứa trẻ với hình ảnh của cha mẹ bị đổ vỡ hoặc thiếu vắng (như bị bạo hành thời thơ ấu, bị bỏ rơi, hay cha mẹ qua đời).

Thuyết gắn kết miêu tả tương tác giữa người trưởng thành với vai trò cho đi sự chăm sóc và đứa trẻ, cũng như ảnh hưởng của những tương tác này trong thời thơ ấu và sự phát triển của đứa trẻ. Trẻ thơ trở nên gắn kết với những người lớn nhạy cảm và đáp ứng với những nhu cầu của nó,  những người luôn nhất quán với vai trò cho đi sự chăm sóc đối với đứa trẻ. Khi đứa trẻ lớn lên chút nữa (như bắt đầu biết lẫy rồi biết đi) nó dùng hình ảnh gắn kết ấy như một cái nền an toàn cho mình. Cái nền đó cho phép nó khám phá thế giới từ một vị trí an toàn. Sự đáp ứng của cha mẹ có một vai trò tối quan trọng đối với sự phát triển mô hình gắn kết này. Những mô hình ấy dẫn đến một mô thức làm việc nội bộ định hướng cho sự phát triển nhận thức, cảm xúc, suy nghĩ và kỳ vọng của đứa trẻ trong những mối quan hệ về sau.

Thuyết gắn kết do vậy đặc biệt quan trọng trong ứng dụng để giải quyết trường hợp đứa trẻ không có được cơ hội tạo dựng sự gắn kết an toàn. Thiếu gắn kết đã được xác định là một mối nguy đối với sự phát triển sau này của trẻ, trong thời kỳ dậy thì và trưởng thành. Chẳng hạn, nhiễu loạn gắn kết là một trong những vấn đề lớn được nêu ra ở những đứa trẻ phần lớn thời niên thiếu sống trong một tổ chức thay vì một gia đình, và trong những đứa trẻ làm con nuôi ở một nước khác (Rutter,2006; 2008).

Thuyết Mạng xã hội- Tâm lý học.  Phát triển con người cũng là một khái niệm của xã hội học. Gia đình là một lực lượng xã hội hóa chủ yếu nhưng những yếu tố khác của mạng lưới đồng đẳng và của cộng đồng cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của thanh thiếu niên. Với những thanh niên trưởng thành trong một gia đình khó khăn, vai trò hỗ trợ của xã hội từ những người đồng lứa và từ những thành viên khác trong cộng đồng có thể đặc biệt quan trọng.  Ở một mức độ nhất định, những hỗ trợ ấy có thể bù đắp cho những hoàn cảnh gia đình dẫn tới sự trục trặc trong sự gắn kết của trẻ thơ với hình ảnh cha mẹ.

Một công trình nghiên cứu về khả năng phục hồi (e.g., Masten, 1994) đã khơi dậy sự chú ý đối với những nhân tố bảo vệ mà thanh thiếu niên có được hay từng trải nghiệm, giúp họ đạt được một mức độ thỏa đáng về sự ổn định lành mạnh trong buổi đầu của tuổi trưởng thành. Nếu gia đình ban đầu không sẵn sàng đem lại cho họ những hướng dẫn cần thiết trong điểm nối then chốt của quá trình phát triển nhân cách, những nỗ lực nhằm thực hiện vai trò ấy có thể do họ hàng, gia đình cha mẹ nuôi hay cha mẹ tinh thần, hệ thống dịch vụ xã hội hay các tổ chức phục vụ giới trẻ đảm nhiệm. Cụ thể hơn,Wolkow và Ferguson (2001), lưu ý rằng sự hỗ trợ của cộng đồng dưới hình thức tương tác có sự quan tâm chăm sóc giữa người lớn và trẻ em (những người không có mối quan hệ cha mẹ và con cái), đã rất ít được chú ý trong việc tìm hiểu về những cách xử sự cần thiết và quá trình bên trong hình thành nên cách xử sự ấy.

Bởi vậy, những lý thuyết xã hội về “nguồn vốn xã hội” rất quan trọng để giải thích vai trò của các mạng lưới xã hội. Chẳng hạn như Bourdieu (1977) đã nhấn mạnh rằng nguồn vốn xã hội có thể làm cho những bất công xã hội nảy nở như thế nào, ví dụ, những người có quan hệ xã hội mạnh mẽ và nhiều quyền lực có thể tiếp cận với những nguồn tài nguyên củng cố thêm cho vị trí xã hội đặc quyền của họ. Ở Mỹ, Putnam’s (2000) nghiên cứu về vốn xã hội và những hình thức khác nhau của nó trong việc “liên kết” và “bắc cầu” đã làm hồi sinh mối quan tâm với việc nghiên cứu vai trò của các mạng xã hội và liên hệ giữa các mạng ấy với sự lành mạnh nói chung của cả cộng đồng. Những nghiên cứu về các đặc điểm cốt yếu của những mạng xã hội hữu ích đang trở thành ngày càng mạnh (Thompson, 1994). Điều quan trọng là, mạng xã hội không phải lúc nào cũng đem lại sự hỗ trợ có tính xã hội; và một số kiểu hỗ trợ mà các thành viên mạng xã hội đem lại có thể còn làm tăng thêm nỗi đau khổ (Lincoln, 2000).

Nhận thức về những kiểu nhóm người nhất định cũng có ảnh hưởng tới việc xác định vấn đề và hậu quả kéo theo là khả năng khác nhau của các nhóm người khác nhau trong việc tiếp cận các nguồn lực xã hội ưu tiên và giành được sự chú ý của xã hội. Chính sách nhắm vào những nhóm tiêu cực (như tội phạm chẳng hạn) thường cố gắng điều chỉnh hành vi của họ qua những phương tiện cưỡng bức, trong lúc những chính sách nhắm vào các nhóm tích cực hơn (như các doanh nhân chẳng hạn) thì có xu hướng dựa vào sự khích lệ (Schneider & Ingram, 1990). Cũng vậy, những nhóm yếu thế về mặt chính trị (chẳng hạn, những người vô gia cư), những người bị nhìn nhận một cách tiêu cực trong xã hội, sẽ ở thế bất lợi trong quá trình xác định vấn đề mà ta đề cập ở phần trên.

Kingdon (2003) nêu rõ rằng để giành được một vị trí trong nghị trình chính sách, vấn đề cần phải đi đôi với các giải pháp về chính sách. Những người tìm cách đưa vấn đề của mình vào nghị trình phải đưa ra câu trả lời khả thi để giải quyết vấn đề. Các nhà lãnh đạo đã phải gánh vác vô số vấn đề cần giải quyết, và người ta mong đợi họ chọn những vấn đề đã kèm theo giải pháp sẵn sàng. Bởi vậy, những người chủ trương vấn đề, nếu có khả năng đề xuất giải pháp bên cạnh việc xác định vấn đề một cách rõ ràng dựa trên các khái niệm vững chắc thì sẽ có nhiều khả năng chắc chắn hơn giành được một vị trí trong nghị trình cho vấn đề ấy. Những đặc điểm về chính sách tăng cường khả năng để vấn đề được lựa chọn là:  tính khả thi về mặt kỹ thuật, thích hợp với các giá trị của cộng đồng, có dự kiến thỏa đáng về những khó khăn trong tương lai (chẳng hạn về ngân sách hay về thái độ chấp nhận hay không chấp nhận của công chúng).

Ứng dụng đối với Việt Nam

Ba bộ khung lý thuyết được miêu tả vắn tắt trong bài này có thể có một số ứng dụng đối với Việt Nam nhưng đồng thời cũng đòi hỏi điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh. Đây là một câu hỏi có tính kinh nghiệm về mức độ mà những bộ khung lý luận như thế có thể giải thích hoàn cảnh của những người trẻ không được bảo vệ ở Việt Nam.

Thuyết gắn kết:  Khái niệm về sự gắn kết của trẻ thơ và thiếu niên với những người trưởng thành có vai trò cho trẻ sự chăm sóc thương yêu, và tầm quan trọng của mối gắn kết này đối với sự phát triển rất có thể là một vấn đề có ý nghĩa thiết yếu trong mọi nền văn hóa và mọi quốc gia. Tuy vậy, những biểu hiện cụ thể có thể khác nhau ít nhiều. Những mô thức nhất định về cách nuôi dạy trẻ và phong tục tập quán coi trọng gia đình biểu lộ những khác biệt văn hóa ấy. Bởi vậy, hiểu rõ ý nghĩa của mô hình gắn kết trong các gia đình Việt Nam, sự phương hại của những gắn kết bị đổ vỡ, và tiềm năng của những cơ chế bù đắp nhằm sửa chữa những mối gắn kết ấy sẽ là điều vô cùng hữu ích.  Nhiều học giả (như Lawler, et al., 2011) đã nhận ra rằng hầu hết các tác phẩm về thuyết gắn kết đã được xây dựng và thử nghiệm trong các nền văn hóa phương Tây. Trọng tâm ban đầu về bộ đôi mẹ và con về cơ bản là trong các nền văn hóa phương Tây, đã dẫn tới mối quan ngại trong tư liệu thành văn về việc ứng dụng thuyết gắn kết vào những nền văn hóa bên ngoài phương Tây và những môi trường có nhiều người đóng vai trò cho đi sự chăm sóc thương yêu đối với đứa trẻ. Những nghiên cứu về sau này đã lưu ý rằng ngừơi ta quan sát thấy hành vi gắn kết trong nhiều bối cảnh văn hóa khác nhau và do đó nó được xem là một phổ niệm toàn cầu. Tuy vậy cũng cần có thêm nhiều nghiên cứu nữa để tiếp tục khẳng định điều này.

Mạng xã hội:  Quá trình tổng quát của việc đạt được thành công trong tuổi trưởng thành chắc chắn là khác nhau nhiều trong những điều kiện văn hóa xã hội khác nhau. Trong một bối cảnh văn hóa cụ thể, vai trò của gia đình và các tổ chức xã hội khác có thể được khảo sát về sự chuẩn bị có tính quy chuẩn cho trẻ em bước vào tuổi trưởng thành. Bạn cùng lứa và mạng lưới cộng đồng có thể mạnh hơn và được dựa vào nhiều hơn ở Việt Nam và ở những nước có lịch sử về gia đình nhiều thế hệ. Thêm vào đó, sự quan tâm chú ý to lớn của Việt Nam đối với những hoạt động hướng về giới trẻ cho thấy những mạng lưới này có thể đóng một vai trò quan trọng hơn nhiều so với ở nước Mỹ. Hơn nữa, quan sát sự vận hành của những mạng lưới xã hội khác nhau và ghi lại đặc điểm của nó (như quy mô, thành phần, mức độ lỏng lẻo hay mức độ trao đổi giữa các thành viên) có thể mang lại những thông tin quy phạm cho sự vận hành mạng xã hội ỏ Việt Nam. Sau đó, khảo sát tiềm năng của những kiểu mạng lưới khác nhau nhằm hỗ trợ thanh thiếu niên đạt được sự trưởng thành lành mạnh sẽ đem lại những thông tin hết sức quan yếu cho việc xây dựng và thực hiện những chương trình xã hội khác nhau cho thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn.

Kết luận

Toàn cầu hóa đã mang lại vô số cơ hội để chia sẻ học hỏi giữa những người nghiên cứu và các học giả. Hơn thế nữa, bối cảnh toàn cầu sẽ đòi hỏi nhiều cố gắng thực tế để so sánh và tìm hiểu những cấu trúc, khái niệm và phương pháp khác nhau trong những nỗ lực tìm kiếm tri thức. Rất có thể là một bộ khung lý thuyết nhất định sẽ thích hợp với nền văn hóa và quốc gia này hơn là với nền văn hóa hay quốc gia khác.  Nhưng một số khái niệm cốt lõi – như sự gắn kết, mạng xã hội, và lên chương trình nghị sự – là những khái niệm có tính quan yếu với bất cứ bối cảnh văn hóa nào. Việc tìm kiếm tri thức có thể là khảo sát bản chất cụ thể của nhũng khái niệm ấy trong những môi trường chính trị, văn hóa và xã hội khác nhau.

TƯ LIỆU THAM KHẢO

Ainsworth, M.D., Blehar, M., Waters, E., &Wall, S. (1978). Patterns of Attachment: A Psychological Study of the Strange Situation.Hillsdale, NJ: Lawrence Erlbaum Associates.

Bourdieu, P. (1977).  Outline of a Theory of Practice. Cambridge and New York: Cambridge University Press.

Bowlby, J. (1969).  Attachment and Loss, Vol. 1: Attachment. New York: Basic Books.

Cobb, R., & Elder, C. (1983). Participation in American Politics: The Dynamics of AgendaBuilding.Baltimore, MD: Johns Hopkins University Press.

Collins, M.E.  (2001).  Transition to adulthood for vulnerable youth: A review of research and implications for policy.  Social Service Review, 75 (2), 271-291.

Collins, M.E. &Clay, C.M.  (2009).  Influencing policy for youth transitioning from care:  Defining problems, crafting solutions, and assessing politics.  Children and Youth Services Review, 31 (7), 743-751.

Côté, J.E. (1996).  Sociological perspectives on identity formation: theculture–identity link and identity capital.  Journal of Adolescence, 19, 417–428

Garbarino, J. (1982).Children and Families in the Social Environment. Hawthorne, N.Y.:Aldine.

Kingdon, J.W.  (1995).  Agendas, Alternatives, and Public Policies.  New York:  Harper Collins.

Lawler, M.J., Shaver, P.R., & Goodman, G.S. (2011).Toward relationship-based child welfare services.  Children and Youth Services Review, 33 (3), 473-480.

Lincoln, K.D. (2000).  Social support, negative social interactions, and psychological well-being. Social Service Review, 74, 231–52.

Putnam, R. (2000).  Bowling Alone: The Collapse and Revival of American Community.  New York:  Simon and Schuster.

Rutter, M. (2006). The psychological effects of institutional rearing. In Marshall, P.& Fox, N. (Eds.), TheDevelopment of Social Engagement: Neurobiological Perspectives(pp. 355–391). New York: Oxford University Press.

Rutter, M. (2008).  Implications of attachment theory and research for child care policies. In Cassidy, J. &Shaver, P.R. (Eds.).  Handbook of Attachment: Theory, Research and Clinical Applications(pp. 958-74).   New York and London: Guilford Press.

Schneider, A., & Ingram, H. (1990). Social construction of target populations:Implications for politics and policy. The American Political Science Review, 87(2),334−347.

Shanahan, M.J.  (2000).  Pathways to adulthood in changing societies:  Variability and mechanisms in life course perspective.  Annual Review of Sociology, 26(1), 667-692.

Spencer, R., Collins, M.E., Ward, R., &Smashnaya, S.  (2010).  Mentoring for youth leaving foster care: Promise and potential pitfalls.  Công tác xã hội, 55 (3), 225-234.

Taylor, R., Stevens, I., & Nguyen, L.  (2009).  Introducing vocational qualifications in care to the Socialist Republic of Vietnam.  Công tác xã hội Education, 28(1), 29-41.

Thompson, R.A. (1994).  Social support and the prevention of child maltreatment.  In Melton, G.B.&Barry, F.D. (Eds.).  Protecting Children from Abuse and Neglect: Foundations for a New NationalStrategy(pp. 40-130).  New York: Guilford.

Wolkow, K.E. &Ferguson, H.B.  (2001).  Community factors in the development of resiliency: Considerations and future directions.Community Mental Health Journal, 37, 6, 489-498.

[1] “Thuyết gắn kết” tạm dịch từ thuật ngữ “Attachment Theory”, là một lý thuyết liên ngành miêu tả về sự vận động của những mối quan hệ dài hạn giữa người với người.  Nguyên lý quan trọng nhất của lý thuyết này là một đứa trẻ cần xây dựng quan hệ với ít nhất một người chính yếu cho nó sự chăm sóc quan tâm, để có thể phát triển một cách bình thường về mặt cảm xúc và về mặt xã hội (Chú thích của người dịch).

[2] Thuyết lên chương trình tạm dịch từ thuật ngữ Agenda-Setting Theory, một học thuyết cho rằng những phương tiện truyền thông tin tức có một ảnh hưởng to lớn với người nghe nhìn, theo nghĩa chuyện gì được coi là tin tức đáng giá để đưa lên mặt báo và tầm quan trọng của tin tức ấy được thể hiện qua thời lượng hay không gian dành cho tin tức ấy là lớn tới cỡ nào  (Chú thích của người dịch).

6 Bước Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định

3. Hiểu vấn đề

Không phải tất cả các vấn đề có ảnh hưởng đến bạn đều do chính bạn giải quyết. Nếu bạn không có quyền hạn hay năng lực để giải quyết nó, cách tốt nhất là chuyển vấn đề đó sang cho người nào có thể giải quyết. Có một câu nói nửa đùa nửa thật nhưng cũng đáng để bạn lưu ý: “Nhiệt tình cộng với thiếu hiểu biết đôi khi thành phá hoại”. Cũng có những vấn đề bạn hoàn toàn có thể ủy quyền cho cấp dưới thay vì tự mình phải giải quyết, bởi vậy việc phân quyền và khuyến khích tính tích cực của mọi người trong giải quyết vấn đề là điều rất cần thiết.

Nội dung quan trọng nhất khi ra quyết định là sự kịp thời và hiệu quả. Các quyết định cần được xem xét kỹ lưỡng nhưng đảm bảo tốc độ nhanh chóng.

Yếu tố sáng tạo sẽ giúp nhà quản lý tìm được giải pháp đôi khi hơn cả mong đợi. Cần lưu ý là một giải pháp tối ưu phải đáp ứng được ba yếu tố: có tác dụng khắc phục giải quyết vấn đề dài lâu, có tính khả thi, và có tính hiệu quả. Các công cụ hiện đại và ý kiến tham chiếu phát huy mạnh mẽ tác dụng của mình trong bước này. Những phương pháp quyết định có hệ thống sẽ hỗ trợ cho việc sáng tạo, gạt đi các ý tưởng lỗi thời, không phù hợp. Tất cả các lựa chọn cần được cân nhắc kỹ lưỡng và phán đoán kết quả trong tương lai. Khi ra một quyết định quan trọng, nhà lãnh đạo luôn đối mặt với những rủi ro tiềm tàng. Điều này là không thể tránh khỏi. Một vấn đề bạn cần tránh khi ra quyết định là suy nghĩ theo cảm tính thay vì logic, hệ thống.

Khi bạn tin rằng mình đã hiểu được vấn đề và biết cách giải quyết nó, bạn có thể bắt tay vào hành động. Để đảm bảo các giải pháp được thực thi hiệu quả, nhà quản lý cần phải truyền đạt rõ ràng, chính xác, nhanh chóng tới đội ngũ của mình. Bạn cần lên kế hoạch thực thi, xác định ai là người chịu trách nhiệm, phân công công việc, thời gian để thực hiện, những nguồn lực cần thiết là gì, khuyến khích mọi người tham gia lập kế hoạch hành động. Trong quá trình thực thi, các công cụ theo dõi sẽ phát huy tác dụng và cho bạn những phản hồi liên tục về tiến độ, kết quả thực hiện.

Sau khi đã đưa vào thực hiện một giải pháp, bạn cần kiểm tra xem cách giải quyết đó có tốt không và có đưa tới những ảnh hưởng không mong đợi nào không. Những bài học rút ra được ở khâu đánh giá này sẽ giúp bạn giảm được rất nhiều “calori chất xám” và nguồn lực ở những vấn đề khác lần sau.

Kenneth Stott & Allan Waler (1992), Making Management Work – A Practical Approach.

Thực hiện theo các bước trên sẽ giúp bạn giảm thiểu rủi ro, cảm tính và đưa ra được quyết định sáng suốt hơn. Công cụ này cũng giúp bạn tiết kiệm thời gian đối với các vấn đề tương tự hay lặp đi lặp lại nhiều lần, mang tới cách giải quyết triệt để.

Quy Trình Giải Quyết Vấn Đề 8D

Thực hiện theo 8 bước này để chẩn đoán, điều trị và loại bỏ vấn đề chất lượng.

Khi công ty bạn vướng vào một vấn đề lớn, bạn cần giải quyết nó một cách nhanh chóng. Tuy nhiên bạn cũng cần giải quyết nó kỹ lưỡng và đảm bảo nó không tái diễn – và điều này có thể mất rất nhiều công sức và thời gian.

Mô hình giải quyết vấn đề 8D giúp bạn làm cả những điều dường như mâu thuẫn, một cách chuyên nghiệp và kiểm soát. Trong bài viết này, chúng ta sẽ xem xét quá trình giải quyết vấn đề 8D, và chúng ta sẽ thảo luận làm thế nào bạn có thể sử dụng nó để giúp đội nhóm giải quyết vấn đề lớn.

Nguồn gốc của công cụ

Công ty Ford Motor phát triển quá trình giải quyết vấn đề 8D (8 điều luật), và công bố nó năm 1987, “Team Oriented Problem Solving (TOPS).” Vào giữa những năm 90, , Ford bổ sung thêm một, D0: Kế hoạch. Quá trình hiện này là tiêu chuẩn toàn cầu của Ford, và được gọi là Global 8D.

8 quy trình đó được thể hiện trong hình 1 bên dưới.

Trước khi bạn bắt đầu thiết lập một đội để giải quyết vấn đề, bạn cần có kế hoạch tiếp cận. Điều này có nghĩa là suy nghĩ về những người sẽ có trong đội nhóm, khung thời gian của bạn, và tài nguyên mà nạn cần để giải quyết vấn đề.

Bước 1: Xây dựng đội nhóm

Bạn nên cố gắng thiết lập đội nhóm có những kỹ năng cần thiết để giải quyết vấn đề, và có thời gian và năng lượng để cam kết cho quá trình giải quyết vấn đề.

Hãy nhớ rằng một nhóm đa dạng có khả năng cao hơn để tìm ra một giải pháp sáng tạo hơn là một đội ngũ những người có tầm nhìn như nhau (mặc dù, nếu tầm nhìn quá đa dạng, mọi người có thể mất thời gian để tranh luận dẫn đến không có gì được thực hiện).

Thiết lập điều lệ đội, vạch ra mục tiêu đội nhóm và xác định vai trò của từng người. Sau đó, làm những gì bạn có thể để xây dựng lòng tin và để tất cả mọi người tham gia vào quá trình.

Nếu nhóm của bạn được tạo thành từ các chuyên gia những người không làm việc với nhau trước đó, xem xét bắt đầu xây dựng hoạt động team-building để đảm bảo mọi người thấy thoải mái khi làm việc với nhau.

Khi nhóm đã được thiết lập, mô tả vấn đề một cách chi tiết. Chỉ rõ ai, cái gì, khi nào, tại sao, như thế nào và bao nhiêu và sử dụng các kỹ thuật như CATWOE, quá trình xác định vấn đề đảm bảo bạn đang tập trung vào đúng vấn đề.

Bắt đầu bằng cách thực hiện phân tích rủi ro – nếu vấn đề gây ra rủi ro nghiêm trọng, ví dụ, tới sức khỏe hay cuộc sống của mọi người, thì bạn cần phải có hành động thích hợp. (Nó có thể bao gồm việc dừng mọi người sử dụng sản phẩm họ tới khi vấn đề được giải quyết).

Nếu vấn đề là với một quá trình, sử dụng Sơ đồ luồng, Sơ đồ làn bơi và Storyboard – Phân cảnh nội dung giúp các thành viên trong nhóm hiểu quá trình hoạt động như thế nào, và sau đó, suy nghĩ làm thế nào tốt nhất để sửa chữa nó.

Xác định gốc rễ của vấn đề trong quá trình, sau đó mới giải quyết, vì vậy đừng lãng phí thời gian. Ngay bây giờ, mục tiêu của bạn là nhìn vào những điều đã sai, và đảm bảo nhóm hiểu được toàn bộ vấn đề.

Bước 3: Thực hiện một bản sửa lỗi tạm thời

Khi nhóm bạn hiểu được vấn đề, đưa ra một bản sửa chữa tạm thời. Điều này đặc biệt quan trọng nếu vấn đề đang ảnh hưởng tới khách hàng, chất lượng sản phẩm giảm, hoặc làm chậm quá trình làm việc.

Khai thác kiến thức của mọi người trong nhóm. Đảm bảo ý tưởng của mỗi người đều được lắng nghe, xem xét sử dụng các kỹ thuật như Brainstorming , Động não vòng tròn , Phương pháp đóng góp ý kiến của Crawford cùng với đội nhóm thảo luận giải quyết vấn đề .

Bước 4: Xác định và loại bỏ nguyên nhân gốc rễ

Khi sửa chữa tạm thời, đó là thời gian để khám phá nguyên nhân gốc rễ của vấn đề.

Tiến hành phân tích nguyên nhân và tác động xác định nguyên nhân có thể có của vấn đề. Công cụ này rất hữu ích vì nó giúp bạn phát hiện ra nhiều nguyên nhân có thể có, và nó làm nổi bật các vấn đề khác mà bạn có thể chưa biết. Tiếp theo, áp dụng phân tích gốc rễ vấn đề tìm ra căn nguyên của vấn đề mà bạn đã xác định.

Một khi bạn xác định được gốc rễ vấn đề, phát triển một số giải pháp lâu dài cho nó.

Bước 5: Xác minh giải pháp

Khi nhóm bạn đồng ý về một giải pháp lâu dài, hãy chắc chắn bạn kiểm tra kỹ trước khi thực hiện, trong các bước tiếp theo.

Tiến hành phân tích FMEA tìm ra vấn đề tiềm ẩn.

Sử dụng phân tích tác động để đảm bảo không có hậu quả không mong muốn trong tương lai.

Sử dụng 6 chiếc mũ tư duy kiểm tra sửa chữa từ nhiều quan điểm khác nhau về quan điểm.

Cuối cùng, tiến hành phânt ích điểm mù để xác nhận bạn, và nhóm bạn không bỏ qua yếu tố quan trọng nào, hoặc đưa ra giả định không chính xác về giải pháp này.

Bước 6: Thực hiện một giải pháp vĩnh viễn

Khi nhóm đạt đến sự đồng thuận về giải pháp, hãy thực hiện. Giám sát chặt chẽ giải pháp mới này với một thời gian thích hợp để đảm bảo rằng nó hoạt động một cách chính xác và đảm bảo không có tác dụng phụ không mong muốn.

Bước 7: Ngăn chặn vấn đề tái diễn

Khi bạn chắc chắn rằng giải pháp lâu dài đã giải quyết được vấn đề, tập hợp nhóm lại với nhau một lần nữa để xác định cách thức ngăn chặn các vấn đề xảy ra trong tương lai.

Bạn có thể cần phải cập nhật các tiêu chuẩn, chính sách, thủ tục, hoặc đào tạo để phản ảnh sửa chữa mới. Bạn có thể cũng cần đào tạo người khác quy trình hoặc tiêu chuẩn mới. Cuối cùng, bạn sẽ cần phải xem xét có nên thay đổi phương thức quản lý của mình hoặc các thủ tục để ngăn ngừa tái phát.

Bước 8: Ăn mừng thành công đội nhóm

Trước khi nhóm tan rã, tiến hành dánh giá xem giải pháp của bạn có hoạt động như bạn nghĩ, và để cải thiện giải quyết vấn đề trong tương lai.

Vào cuối những năm 1980, công ty Ford Motor phát triển quá trình giải quyết vấn đề 8D(8 điều luật) để giúp đội sản xuất và kỹ thuật chẩn đoán, điều trị và loại bỏ các vấn đề chất lượng. Tuy nhiên, các đội trong bất cứ ngành nào cũng có thể sử dụng quy trình giải quyết vấn đề này.

Nó bao gồm:

Quá trình giả quyết vấn đề 8D tốt nhất nên được sử dụng với đội nhóm giải quyết vấn đề phức tạp; Tuy nhiên, cá nhân cũng có thể sử dụng nó để giải quyết những vấn đề của riêng họ.

Phương Pháp Dạy Học “Nêu Giải Quyết Vấn Đề”

Phương pháp dạy học Nêu và giải quyết vấn đề có tính chất nghiên cứu: Đây là phương pháp mà tình huống có vấn đề do giảng viên tạo ra hoặc do người học chủ động tạo ra nhưng quá trình giải quyết vấn đề là hoàn toàn do người học độc lập thực hiện dưới sự hướng dẫn của giảng viên. Trong các phương pháp nêu trên, phương pháp thuyết trình nêu vấn đề và phương pháp tìm tòi bộ phận được đánh giá là phù hợp với người học trình độ sơ cấp và trung cấp nghề. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, với một mục tiêu và nội dung phù hợp thì chúng ta hoàn toàn có thể vận dụng phương pháp dạy học Nêu và giải quyết vấn đề có tính chất nghiên cứu cho đối tượng học viên học nghề mà cụ thể là dưới hình thức tiếp cận dạy học theo dự án đang được thử nghiệm và thực hiện trong thời gian gần đây.

HVTH: Lê Văn Trung Trực Trang 1 PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC “NÊU GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ” A. Dẫn nhập: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực…”. Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học đã được đặt ra, và là định hướng quan trọng về cải cách giáo dục của nước ta hiện nay. Dưới làn sóng đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra là giáo dục phải đào tạo ra những con người năng động và sáng tạo, có tính thích nghi cao đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Với phương châm “dạy học lấy người học làm trung tâm”, bao gồm nhiều phương pháp dạy học khác nhau như: Phương pháp dạy học chương trình hóa, phương pháp dạy hợp tác, dạy học khám phá, dạy học theo dự án… Trong đó, phương pháp dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề” là một trong những phương pháp dạy học phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục nước ta hiện nay. Mặc dù, dạy học không đơn thuần là truyền thụ kiến thức mà là một quá trình trong đó người lĩnh hội, tự kiến tạo những kỹ năng, tri thức cần thiết cho cuộc sống của mình, nhằm đáp ứng những thách thức của cuộc sống mà người học sẽ đối diện. Việc áp dụng phương pháp dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề” sẽ giúp cho người học chủ động, tích cực hơn trong việc học cũng như trong cuộc sống tương lai. GVHD: Trần Hữu Thi Tiểu luận Phƣơng pháp dạy học “Nêu và Giải quyết vấn đề” HVTH: Lê Văn Trung Trực Trang 2 B. Nội dung: 1. Một số khái niệm đƣợc dùng trong phƣơng pháp dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề”: Khái niệm vấn đề: Theo chúng tôi lence: “Vấn đề là một câu hỏi nảy ra hay đặt ra cho chủ thể mà chủ thể chưa biết lời giải từ trước và phải tìm tòi sáng tạo lời giải, nhưng chủ thể đã có sẵn một số phương tiện ban đầu sử dụng thích hợp vào việc tìm tòi đáp án”. Theo quan niệm của V-okon, vấn đề trong học tập có một số nét đặc trưng như: vấn đề đặt ra phải tương đối hấp dẫn, có tính tự nhiên, gần gũi với cuộc sống của người học. Như thế, vấn đề sẽ có khả năng kích thích thính tích cực của người tham gia vào giải quyết vấn đề đó; Vấn đề phải bao hàm trong đó một khó khăn lớn cần giải quyết. Cảm giác thấy khó khăn là điểm xuất phát để đặt các vấn đề và nêu lên các giả thuyết; Vấn đề còn hàm chứa trong nó tính cơ động – đó là sự chuyển tiếp một cách tự nhiên từ giả thuyết này sang giả thuyết khác, hay sự chuyển tiếp từ giai đoạn này sang giai đoạn khác để đi đến kết quả giải quyết được vấn đề. Vì vậy, theo ông: “vấn đề trong học tập hình thành từ một khó khăn về lý luận hay thực tiễn mà việc giải quyết khó khăn đó là kết quả của tính tích cực nghiên cứu của bản thân học sinh” . Vấn đề đặt ra phải có một cái gì đó chưa biết vì nếu biết tất cả thì sẽ không còn gì để suy nghĩ, tìm kiếm. Đồng thời, vấn đề phải có cái gì đã biết hay đã có vì nếu không cho gì thì sẽ không thể nhận thức được điều gì cả. Cuối cùng, trong mỗi vấn đề phải có điều kiện quy định mối liên hệ giữa các nhân tố đã biết với các nhân tố chưa biết tạo điều kiện cho người học tháo gỡ được vấn đề. Khái niệm tình huống có vấn đề GVHD: Trần Hữu Thi Tiểu luận Phƣơng pháp dạy học “Nêu và Giải quyết vấn đề” HVTH: Lê Văn Trung Trực Trang 3 Tình huống có vấn đề đó chính là mâu thuẫn nhận thức giữa “cái đã biết” (kinh nghiệm, tri thức và cách thức hành động đã biết của chủ thể để tự tìm kiếm tri thức với sự nỗ lực lớn về trí tuệ và thể lực) và “cái chưa biết” (những tri thức những cách thức hành động trong nội dung dạy học mà chủ thể chưa biết, cần phải tìm tòi và đạt tới). Mâu thuẫn này phải vừa sức với người học để với sự nổ lực cao về cả trí tuệ và ý chí người học có thể giải quyết mâu thuẫn, tháo gỡ được khó khăn và tạo được sự thoải mái, phấn khởi khi đã giải quyết nhiệm vụ. Nếu khó khăn đề ra quá dễ hoặc quá khó thì ít có khả năng làm xuất hiện nhu cầu nhận thức ở người học (trạng thái tâm lý của nhận thức) và như thế tình huống có vấn đề sẽ mất đi giá trị của nó. Cơ chế phát sinh tình huống có vấn đề trong dạy học giải quyết vấn đề: “Hoạt động nhận thức – học tập của học viên là hoạt động có đối tượng Bản thân sự tồn tại của bài toán oristic chưa làm nó trở thành đối tượng của hoạt đông nhận thức của sinh viên trên giảng đường. Nó chỉ trở thành đối tượng của hoạt động này chừng nào nó làm xuât hiện trong ý thức của sinh viên một mâu thuẫn nhận thức tự giác, một nhu cầu bên trong muốn giải quyết mâu thuẫn đó (tức là bài toán). Như vậy, bài toán mà giáo viên đưa ra luôn chứa đựng mâu thuẫn. Nhưng mâu thuẫn này tồn tại một cách khách quan đối với người học. Chỉ khi nào người học tiếp nhận bài toán, thấy mâu thuẫn và có nhu cầu giải quyết mâu thuẫn của bài toán thì khi đó người học mới là chủ thể của hoạt động nhận thức mà bài toán là đối tượng. Khi ấy, tình huống có vấn đề mới xuất hiện và tồn tại trong ý thức của người học. Phân loại tình huống có vấn đề, trong dạy học thường có những loại tình huống có vấn đề sau: + Tình huống nghịch lý: Đó là tình huống thoạt nhìn tưởng như vô lý, đi ngược lại những lý thuyết đã được công nhận chung. Đối với người học, tình huống này được tạo ra bằng cách giới thiệu những sự kiện, hiện tượng GVHD: Trần Hữu Thi Tiểu luận Phƣơng pháp dạy học “Nêu và Giải quyết vấn đề” HVTH: Lê Văn Trung Trực Trang 4 trái với quan điểm thông thường, với kinh nghiệm của cá nhân họ. Việc giải quyết những tình huống này có thể đem lại một lý thuyết mới, phế bỏ những lý thuyết lỗi thời. + Tình huống lựa chọn: Đó là tình huống xuất hiện khi người học đứng trước nhiều phương án giải quyết, phương án nào cũng có lý. Nhưng chỉ có thể lựa chọn một phương án duy nhất mà thôi. + Tình huống bác bỏ: Đó là tình huống đặt ra khi người học đứng trước một kết luận, một luận đề sai lầm, phản khoa học. Nhiệm vụ của người học là đưa ra những luận chứng để bác bỏ chúng. + Tình huống tại sao: Là tình huống trong đó có những sự kiện, hiện tượng mà với kinh nghiệm cũ người học không thể giải quyết và luôn thốt ra câu hỏi “Tại sao”. Trong dạy học, tình huống này rất phổ biến và hiệu nghiệm. Dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề”: Dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề” là một phân hệ của phương pháp dạy học vì nó tập hợp nhiều phương pháp cụ thể thành một chỉnh thể nhằm đạt mục đích sư phạm, là tổ chức hoạt động nhận thức sáng tạo của người học, trên cơ sở vừa tiếp thu được kiến thức vừa hình thành được những kinh nghiệp kỹ năng trên cơ sở tìm tòi nghiên cứu. Trong dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề”, có đặc trưng là đặt người học tình huống có vấn đề, mà một tình huống có vấn đề đối với người học khi nó chứa đựng vấn đề chưa biết, phù hợp với nhu cầu, khả năng vốn có của cá nhân đó và khi giải quyết được vấn đề, cá nhân đạt được một bước phát triển mới. Như vậy, phương pháp dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề” được xây dựng dựa trên bản chất của hoạt động dạy học, xem hoạt động dạy học là một quá trình nhận thức tích cực. Ngoài ra, phương pháp dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề” còn được xây dựng “trên nguyên tắc tính tích cực, tự giác, độc lập nhận thức của người học trong giáo dục bời vì nó khêu gợi được động cơ học tập”. GVHD: Trần Hữu Thi Tiểu luận Phƣơng pháp dạy học “Nêu và Giải quyết vấn đề” HVTH: Lê Văn Trung Trực Trang 5 2. Đặc điểm, bản chất của phƣơng pháp dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề”: Phương pháp dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề” là một hệ thống phương pháp trong đó xây dựng tình huống có vấn đề là trung tâm chỉ đạo, liên kết các phương pháp khác thành một hệ thống chặc chẽ. Mục đích của Phương pháp dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề” không chỉ là giúp người học có được tri thức mới mà còn thông qua quá trình giải quyết vấn đề để rèn cho người học năng lực giải quyết vấn đề, tinh thần sáng tạo, tự học. Phương pháp dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề” được thực hiện theo hướng quy nạp, nghĩa là nội dung được tiếp cận thông qua quá trình giải quyết vấn đề thay vì giải quyết vấn đề sau khi đã giới thiệu nội dung. Trong phương pháp dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề” có tác dụng tích cực hóa hoạt động của người học. Đặt người học vào trong tình huống có vấn đề, thúc đẩy người học sẵn sàng hoạt động một cách tự giác, tích cực, có động cơ, có mục đích và khi vấn đề được giải quyết, người học có được niềm vui và động lực mới cho những lần học sau. 3. Cấu trúc của dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề”: “Một phương pháp dạy học chỉ có khả năng bồi dưỡng những phẩm chất của tư duy khi nó thực sự phát động, thúc đẩy sự suy nghĩ tích cực của người học và dẫn dắt sự suy nghĩ ấy theo con đường ngắn nhất, hợp lý nhất, để đạt tới kiến thức và kỹ năng”. Dạy học giải quyết vấn đề là một phương pháp như vậy. Trên cơ sở những thành tựu nghiên cứu về tư duy, người học đứng trước tình huống có vấn đề, người học sẽ băn khoăn suy nghĩ, tìm cách giải quyết nhưng lại chưa biết suy nghĩ bắt đầu từ đâu, theo phương hướng nào. GVHD: Trần Hữu Thi Tiểu luận Phƣơng pháp dạy học “Nêu và Giải quyết vấn đề” HVTH: Lê Văn Trung Trực Trang 6 Ở đây phải có một bước tiến lên mang chất lượng mới: ý thức được (Hoặc biểu đạt được) vấn đề, thường thể hiện ra ở chỗ “đặt được câu hỏi” hoặc “nêu được thắc mắc” (trong nghiên cứu là xác định được đề tài khoa học). Nếu thiếu khả năng hoặc thiếu kiến thức cần thiết, chúng ta sẽ không ý thức được vấn đề, không đặt được câu hỏi hoặc đặt câu hỏi vụng về. Lúc đó người người dạy cần giúp đỡ ngưởi học bằng cách nêu câu hỏi hoặc gợi ý cho người học nêu lên những thắc mắc cần thiết. Vậy, học sinh đi từ chỗ biết “ở đây có điều mình chưa biết” đến chỗ thấy rõ “mình chưa biết cái gì?” và tư duy thực sự diễn ra. Hình 1 bên dưới cũng có thể xem như là cấu trúc của dạy học nêu và giải quyết vấn đề theo quan điểm của V-okon. Và bởi lẻ đây là sơ đồ của một quá trình tư duy trọn vẹn nên đây cũng là cơ sở cho cách phân chia các giai đoạn của dạy học nêu và giải quyết vấn đề. Cũng theo V-okon, nếu tóm tắt dưới hình thức sơ đồ thì một quá trình tư duy trọn vẹn sẽ bao gồm các khâu như sau: GVHD: Trần Hữu Thi Tiểu luận Phƣơng pháp dạy học “Nêu và Giải quyết vấn đề” HVTH: Lê Văn Trung Trực Trang 7 – Băn khoăn, thắc mắc, ý thức được là có vấn đề cần giải quyết. – Ý thức được vấn đề: Đâu lả cái cần biết. – Gợi lại các kinh nghiệm và tri thức đã có, đối chiếu với câu hỏi. – Gợi lại những nguyên tắc tổng quát đã biết để giải quyết vấn đề, đối chiếu với câu hỏi – Phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa.những kiến thức đã được gợi lại, cả những câu hỏi đặt ra nhằm tìm ra trong đó những quan hệ mới, đáp ứng đúng câu hỏi(dưới dạng ban đầu hoặc dưới dạng đã biến đổi nhờ các thao tác tư duy) – Thoải mái, phấn khởi vì đã giải quyết xong vấn đề, đạt tới tri thức mới. Hình 1: Cấu trúc Dạy học “nêu và giải quyết vấn đề” GVHD: Trần Hữu Thi Tiểu luận Phƣơng pháp dạy học “Nêu và Giải quyết vấn đề” HVTH: Lê Văn Trung Trực Trang 8 4. Giai đoạn thực hiện/Quy trình dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề”: Ở đây, chúng ta có thể chia quy trình dạy học giải quyết vấn đề thành 3 giai đoạn: 4.1 Giai đoạn 1: Đặt vấn đề/Nêu vấn đề Ở giai đoạn này, người dạy giao nhiệm vụ nhận thức thông qua việc làm xuất hiện tình huống vấn đề, phân tích tình huống đặt ra nhằm giúp người học nhận biết được vấn đề, sẵn sàng và mong muốn tham gia giải quyết vấn đề. Với sự dẫn dắt của người dạy, giai đoạn này có thể thực hiện theo 2 bước: Bước 1: Giới thiệu tình huống có vấn đề Tùy vào tình huống có vấn đề được nêu ra mà chúng ta có thể sử dụng nhiều cách thức khác nhau để giới thiệu nó như kể một câu chuyện, xem một đoạn video, đưa ra một câu hỏi, sử dụng tình huống thực tế xảy ra trong cuộc sốngchứa đựng vấn đề người dạy dự định trước đó. Tuy nhiên, việc lựa chọn cách thức giới thiệu phải hết sức thận trọng, không làm mất thời gian và gây sự nhầm lẫn ở người học, khiến người học khó tiếp cận vấn đề nêu ra. Bước 2: Làm sáng tỏ vấn đề Mục đích của bước này là giúp người học nhận diện được vấn đề tồn tại trong tình huống. Trong thực tế dạy học, rất ít khi tất cả người học có thể nhận ra vấn đề ngay sau khi tình huống được đưa ra. Lúc đó, người dạy sẽ sử người học. Theo đó, có hai dạng câu hỏi được đề cập. Một là, những câu hỏi gợi lại dấu hiệu đã biết trong tình huống. Hai là, những câu hỏi giúp người học xác định điều mà chúng cần biết thêm. Cùng với việc giới thiệu tình huống có vấn đề và làm sáng tỏ vấn đề thì việc kích thích hứng thú nhận thức ở người học cũng là điều hết sức quan trọng trong giai đoạn này. Muốn vậy, hình thức giới thiệu phải lôi cuốn và sau GVHD: Trần Hữu Thi Tiểu luận Phƣơng pháp dạy học “Nêu và Giải quyết vấn đề” HVTH: Lê Văn Trung Trực Trang 9 khi đứa người học nhận diện được vấn đề thì cần làm cho chúng hiểu được đó là vấn đề mà việc giải quyết nó là hêt sức cần thiết với chính người học. 4.2 Giai đoạn 2: Giải quyết vấn đề Sau khi nắm bắt vấn đề, tiếp nhận nhiệm vụ nhận thức thì người học quyết vấn đề sau đó lựa chọn cách giải quyết và lên kế hoạch thực hiện nó. Giai đoạn này có thể thực hiện theo các bước: Bước 1: Đề xuất các ý tưởng, giả thuyết. cần), các nhóm sẽ đưa ra ý tưởng và giả thuyết về vấn đề. Tại thời điểm này, ý tưởng và giả thuyết chưa được kiểm chứng, chưa có căn cứ chắc chắn. Bước 2: Xác định các kiến thức cần cho việc giải quyết vấn đề. Dựa trên các ý tưởng, giả thuyết đã nêu ra trong bước 1, người học sẽ liệt kê các kiến thức cần có để kiểm chứng đồng thời xác định kiến thức nào này, vai trò của người dạy là hết sức quan trọng trong việc định hướng cho người học tự xác định chính xác nội dung cần nghiên cứu. Sau khi xác định đâu là những kiến thức mình cần có thêm để giải quyết vấn đề thì người học sẽ có định hướng về các nguồn thông tin cần tham khảo. Đó có thể là giáo trình, tài liệu học tập và các thông tin trên internet, sự tham vấn của người dạy, các chuyên gia và bạn bè cùng họcỞ bước này, người học có thể chia nhóm, phân chia các nội dung cần nghiên cứu và sau hóa kiến thức mới nhận được. Điều này đảm bảo cho tất cả các thành viên hiểu được nội dung kiến thức mới từ đó biết được ý nghĩa của nó trong việc đánh giá các ý tưởng, giả thuyết. GVHD: Trần Hữu Thi Tiểu luận Phƣơng pháp dạy học “Nêu và Giải quyết vấn đề” HVTH: Lê Văn Trung Trực Trang 10 Bước 4: Kiểm nghiệm, đánh giá ý tưởng, giả thuyết. Từng ý tưởng, giả thuyết sẽ được xem xét, kiểm chứng về tính đúng đắn. Trên cơ sở đó, vấn đề được giải quyết. Nếu như khi kiểm chứng, không một giả thuyết nào đưa ra được chấp nhận thì cần phải quay trở lại vấn đề ban đầu, đề xuất giả thuyết mới, rồi kiểm chứng lại. Kết thúc giai đoạn này, người học đã giải quyết được vấn đề nêu ra. Có thể nói, đây là giai đoạn mà người học phải vận dụng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đã có, tiến hành các thao tác tư duy để đưa ra những giả phương án giải quyết vấn đề gặp phải. Các phương án được tìm ra cần được phân tích, so sánh và đánh giá xem có thực hiện được việc giải quyết vấn đề hay không, so sánh để lựa chọn phương án tối ưu. Nếu quá trình thực hiện kế hoạch giải quyết vấn đề gặp trở ngại, người học sẽ quay trở lại xem xét vấn đề và lựa chọn phương án khác, phù hợp hơn. Vì thế, việc khuyến khích người học đưa ra nhiều phương án là việc làm hết sức quan trọng trong giai đoạn này. Việc tin tưởng và dành thời gian cho người học thực nghiệm phương án lựa chọn cũng rất cần thiết. Làm việc nhóm sẽ giúp người học rút ngắn thời gian giải quyết vấn đề, dễ dàng hơn trong việc lựa chọn phương án tối ưu cũng như giúp cho môi trường học tập trở nên thân thiện, cởi mở, tạo động lực cho việc giải quyết các khó khăn. 4.3 Giai đoạn 3: Kiểm tra cách giải quyết vấn đề, kết luận vấn đề/Trình bày kết quả: Kết quả của việc giải quyết vấn đề được thể hiện thông qua việc hiểu vấn đề và sự lí giải hợp lý cho vấn đề. Sự hiểu biết về vấn đề có thể được người học thể hiện thông qua việc viết báo cáo về vấn đề, tạo ra sản phẩm, nêu các giải pháp về vấn đề Cũng có khi trong một thời gian học tập nhất định, người học không thể giải quyết vấn đề thì thay vì trình bày kết quả thu được sau khi giải quyết vấn GVHD: Trần Hữu Thi Tiểu luận Phƣơng pháp dạy học “Nêu và Giải quyết vấn đề” HVTH: Lê Văn Trung Trực Trang 11 tồn động chưa được giải quyết, nảy sinh những vấn đề mới nào và lấy đó làm cơ sở cho việc tiếp tục giải quyết vấn đề cũ cũng như giải quyết vấn đề mới phát sinh. Như vậy, thông qua việc phân tích cấu trúc của dạy học giải quyết vấn đề, chúng ta có thể thấy trong suốt quá trình giải quyết tình huống có vấn đề đặt ra ngay ở đầu buổi học, người học có thể gặp phải rất nhiều vấn đề khác. Vì thế chu trình thực hiện các bước trên được thực hiện nhiều lần, các bước có thể được thực hiện cùng lúc. Nhưng nhìn chung, xét về tổng thể thì giờ học vận dụng phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề luôn có cấu trúc gồm ba giai đoạn như đã nêu. 5. Các mức độ hay các phƣơng pháp dạy học trong dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề” Việc xác định mức độ của dạy học nêu vấn đề tùy thuộc vào mức độ tham gia của người học vào việc giải quyết vấn đề học tập cũng như mức độ tổ chức, hướng dẫn, điều khiển quá trình người học tiếp xúc và giải quyết vấn đề của người học. Tương ứng với mỗi mức độ là một phương pháp trong hệ phương pháp dạy học Nêu và giải quyết vấn đề. + Mức độ 1 – phương pháp thuyết trình (diễn giảng) nêu vấn đề: Đây là mức thấp nhất của dạy học giải quyết vấn đề. Giảng viên nêu vấn đề, đặt đứa người học vào tình huống có vấn đề để định hướng cho hoạt động tư duy của người học, nhưng người học không phải là người trực tiếp giải quyết vấn đề mà chỉ là người quan sát, tư duy để hiểu cách giải quyết vấn đề của giảng viên. Như vậy, ở mức độ này, mặc dù người học vẫn nắm bắt được vấn đề nhưng vai trò tích cực, chủ động của người học chưa được phát huy. + Mức độ 2 – Phương pháp tìm tòi bộ phận: Ở mức độ này, sau khi đặt đứa người học vào tình huống có vấn đề, làm xuất hiện ở người học nhu cầu giài quyết tình huống có vấn đề thì giảng viên định hướng và tổ chức cho người học hành động giải quyết một phần tình huống có vấn đề bằng cách xây GVHD: Trần Hữu Thi Tiểu luận Phƣơng pháp dạy học “Nêu và Giải quyết vấn đề” HVTH: Lê Văn Trung Trực Trang 12 dựng hệ thống câu hỏi để người học suy nghĩ, giải đáp và giải quyết vấn đề (phương pháp đàm thoại nêu vấn đề) hoặc giảng viên có thể chia nhỏ nhiệm vụ học tập phức tạp thành những nhiệm vụ học tập nhỏ vừa sức. Người học tự mình giải quyết các nhiệm vụ nhỏ, lớn dần và cuối cùng giải quyết vấn đề của bài học. + Mức độ 3 – Phương pháp dạy học Nêu và giải quyết vấn đề có tính chất nghiên cứu: Đây là phương pháp mà tình huống có vấn đề do giảng viên tạo ra hoặc do người học chủ động tạo ra nhưng quá trình giải quyết vấn đề là hoàn toàn do người học độc lập thực hiện dưới sự hướng dẫn của giảng viên. Trong các phương pháp nêu trên, phương pháp thuyết trình nêu vấn đề và phương pháp tìm tòi bộ phận được đánh giá là phù hợp với người học trình độ sơ cấp và trung cấp nghề. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, với một mục tiêu và nội dung phù hợp thì chúng ta hoàn toàn có thể vận dụng phương pháp dạy học Nêu và giải quyết vấn đề có tính chất nghiên cứu cho đối tượng học viên học nghề mà cụ thể là dưới hình thức tiếp cận dạy học theo dự án đang được thử nghiệm và thực hiện trong thời gian gần đây. 6. Những lƣu ý khi áp dụng phƣơng pháp dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề”: Vấn đề đưa ra phải phù hợp với thời điểm, hoàn cảnh và đặc biệt phải phù hợp với đối tượng người học, đảm bảo đưa người học vào tình huống có vấn đề. Đặt vấn đề quá khó hay quá dễ đều không thể đưa người học vào tình huống có vấn đề. Mức độ thành công của phương pháp này phụ thuộc rất nhiều vào nghệ thuật đặt vấn đề và dẫn dắt giải quyết vấn đề của người dạy. Muốn thành công, người dạy phải nắm chắc kiến thức, phải hiểu người học. Vì thế, cùng một giáo án, khi dạy ở các lớp khác nhau sẽ được nêu vấn đề theo những cách thức và mức độ khác nhau. Sau khi đặt vấn đề, việc hướng dẫn người học trong quá trình giải quyết vấn đề rất linh hoạt. Kịp thời khuyến khích những hướng đi đúng và khuyến GVHD: Trần Hữu Thi Tiểu luận Phƣơng pháp dạy học “Nêu và Giải quyết vấn đề” HVTH: Lê Văn Trung Trực Trang 13 khích những giải pháp tốt đồng thời uốn nắn những giải pháp chưa hợp lý hoặc chưa sát với mục đích mà người dạy đang hướng quá trình nhận thức của người học đạt tới. Phần tóm tắt, hệ thống hóa kiến thức từng phần hay toàn bài phải cô đọng, ngắn gọn, nêu được giải pháp giải quyết vấn đề đang cần tìm. Chú ý quản lý thời gian và tiến trình giờ giảng cho tốt. Trong khuôn khổ thời gian của một bài dạy, nếu cách nêu vấn đề không được chuẩn bị kĩ, còn lan man, việc tổng kết không trọng tâm, trọng điểm… dễ làm cho bài giảng thiếu thời gian, không đạt kết mong muốn. Nên phối hợp phương pháp này với các phương pháp giảng dạy khác. Không nên áp dụng đơn điệu một phương pháp. Trong mỗi bài dạy nên có một phương pháp chủ đạo và nhiều phương pháp khác bổ trợ. C. Kết luận Dạy học “Nêu và giải quyết vấn đề” là phương pháp dễ áp dụng và dễ đạt hiệu quả cao. Áp dụng phương pháp này sẽ kích hoạt tính tích cực của người học, tạo điều kiện cho người học chủ động tìm kiếm tri thức, nâng cao hiệu quả học tập, có điều kiện rèn luyện toàn diện bản thân. Những cái khó khi áp dụng phương pháp này là người dạy phải rất hiểu trình độ của người học, phải nắm rất vững nội dung bài dạy và luôn linh hoạt khéo léo đưa người học vào hoàn cảnh có vấn đề, giúp họ giải quyết vấn đề để thoát khỏi tình huống đó. Ngoài ra, người dạy phải luôn luôn quản lí tốt thời gian và tiến trình giờ giảng. Cuối cùng, người dạy phải biết kết hợp với các phương pháp dạy học khác khi cần thiết. Có như vậy mới có thể đạt được những giờ dạy thành công. Dạy học Nêu và giải quyết vấn đề là một phương pháp dạy học có thể phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, của mỗi cá nhân học viên nhằm chuần bị cho học viên học nghề thích ứng và hội nhập tốt trong một xã hội GVHD: Trần Hữu Thi Tiểu luận Phƣơng pháp dạy học “Nêu và Giải quyết vấn đề” HVTH: Lê Văn Trung Trực Trang 14 đang phát triển và thay đổi liên tục. Học tập với Phương pháp dạy học Nêu và giải quyết vấn đề, kiến thức, kĩ năng được hình thành ở học viên một cách vững chắc hơn. ———–oOo———– GVHD: Trần Hữu Thi Tiểu luận Phƣơng pháp dạy học “Nêu và Giải quyết vấn đề” HVTH: Lê Văn Trung Trực Trang 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu trong nƣớc: 1. Nguyễn Lăng Bình (2010), Dạy học tích cực, Một số phương pháp và kỹ thuật dạy học (Dự án Việt-Bỉ), Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội. 2. Lê Huy Hoàng (2010), Dạy học Giải quyết vấn đề, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội. 3. Trần Thị Hương (2012), Dạy học tích cực, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh. 4. Nguyễn Văn Khôi (2010), Mô đun dạy học dựa trên giải quyết vấn đề, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. 5. Lê Nguyên Long (1998), Thử đi tìm những phương pháp dạy học hiệu quả, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 6. Nguyễn Hữu Lương (2002), Dạy và học hợp quy luật trí óc, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin Hà Nội. 7. Lê Văn Năm (2008), Dạy học nêu vấn đề lý thuyết và ứng dụng, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội. 8. Nguyễn Cảnh Toàn (1998), Quá trình dạy-tự học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 9. Thái Duy Tuyên (2001), Giáo dục học hiện đại, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. GVHD: Trần Hữu Thi Tiểu luận Phƣơng pháp dạy học “Nêu và Giải quyết vấn đề” HVTH: Lê Văn Trung Trực Trang 16 Tài liệu nƣớc ngoài: 1. I.F. Kharlamop (1978), Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế nào, Nxb Giáo dục Hà Nội. 2. V O Kon (1976), Những cơ sở của việc dạy học nêu vấn đề, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội. 3. chúng tôi Lecne (1977), Dạy học nêu vấn đề, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội 4. Machiuskin A. M. (1972), Các tình huống có vấn đề trong tư duy và trong dạy học, Nhà xuất bản Giáo dục học, Mat-Sco-Va. 5. M.A. Makhamutop (1977), Dạy học nêu vấn đề, Nhà xuất bản Giáo dục. 6. Carl Rogers (2001), Phương pháp dạy và học hiệu quả, Nhà xuất bản Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. ———–oOo———–

Các file đính kèm theo tài liệu này:

tr_30082016_tieu_luan_ppdh_1459.pdf