--- Bài mới hơn ---
Xuất Xứ Tên Gọi Sông Hương
Tại Sao Iphone Không Nhận Thẻ Sim (No Sim Card Installed)? Cách Khắc Phục
Tại Sao Iphone 6 Không Nhận Sim
Tại Sao Iphone 7 Plus Không Nhận Sim
Tại Sao Iphone 7 Plus Không Nhận Sim Quận 3
HỘI THẢO QUỐC TẾ VIỆT NAM HỌC LẦN THỨ BA
Hà Nội, 4-7 tháng 12 năm 2008
TÊN GỌI CỦA SÔNG HỒNG: DẤU TÍCH BIỂU HIỆN NÉT ĐA DẠNG VĂN HOÁ TRONG LỊCH SỬ NGƯỜI VIỆT.
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
1.Sông Hồng và những tên gọi có trong lịch sử.
1.1. Sông Hồng là con sông giữ vị trí văn hoá vô cùng quan trọng không chỉ của riêng thủ dô Hà Nội – Thăng Long ngàn năm văn hiến mà còn của cả vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Ngoài dòng chảy chính đi qua Hà Nội, sông Hồng còn có nhiều chi lưu làm nên một châu thổ trù phú: đồng bằng châu thổ sông Hồng. Cho đến hiện nay, cả trong ghi chép của lịch sử và cả trong sử dụng của dân gian người ta đã nói đến những tên gọi khác nhau của con sông này. Do tính chất quan trọng của con sông trong đời sống cộng đồng dân cư trong vùng, mỗi một tên gọi của nó đều ít nhiều phản ánh dấu vết văn hoá của những chủ nhân đã từng sử dụng những tên gọi đó. Phân tích sự khác nhau của các tên gọi sông Hồng theo nguồn gốc ngôn ngữ và cách cấu tạo, trong một chừng mực nhất định, sẽ giúp chúng ta phần nào làm rõ tính đa dạng văn hoá trong tiến trình phát triển lịch sử của người Việt ở cái nôi hình thành nền văn hoá của dân tộc.
Bản đồ “các tiểu lưu vực của sông Hồng trên lãnh thổ Việt Nam”
1.2. Theo bức tranh phân loại ngôn ngữ ở khu vực hiện được nhiều người đồng tình và sử dụng, Đông Nam Á có năm họ ngôn ngữ là Hán Tạng (Sino – Tibetan), Nam Á (Austroasiatic), Nam Đảo (Austronesian), Thái – Kađai (Tai – Kadai) và Mông – Dao (Miêu – Yao) .
– Sông Nhị Hà/Nhĩ Hà .
– Sông Tam Đới .
2. Như vây, cả trong sử sách và tên gọi dân gian, sông Hồng có khoảng mười tên gọi khác nhau và một số biến thể của mười tên gọi ấy. Dựa vào cách giải thích “nghĩa” (đúng hơn là lý do hay cách thức) gọi tên, người ta có thể chia chúng làm ba kiểu khác nhau. Mỗi một kiểu tên gọi trong số đó sẽ phản ánh “cách thức đặt tên” hay lý do gọi tên thể hiện nguồn gốc ngôn ngữ của những tên gọi ấy.
– Sông Thao, cũng có nghĩa là sông chính. Tên gọi Thao là tên gọi theo cách của người Việt hoặc người Hán bắt nguồn từ tên gọi có nguồn gốc Thái – Kađai là tao (trong “nặm tao“, nghĩa là “sông lớn, sông chính”). Ở Việt Nam, người ta cũng còn gặp một tên gọi kiểu như thế ở vùng Thái Nghệ An: người Thái ở miền đất này gọi con “sông Cả” hay “sông Lam” của người Việt là “nặm Pao” với nghĩa là “sông lớn, chính“. (Năm 2000, trong dịp tham dự hội nghị về ngôn ngữ và văn hoá Thái Áo Hoa do Viện Khoa học Xã hội Vân Nam tổ chức ở huyện tự trị Tân Bình thuộc Ngọc Khê tỉnh Vân Nam Trung Quốc, chúng tôi cũng thấy người Thái ở Tân Bình gọi đoạn thượng nguồn sông Hồng chảy qua đây trên lãnh thổ Trung Quốc là “nặm tao ” với nghĩa là “con sông chính” của vùng đất.
– Sông Nhị Hà/ Nhĩ Hà (tức là sông Nhị/ Nhĩ) được giải thích là có từ thời nhà Minh chiếm đóng Đại Việt. Sách “Đại Nam nhất thống chí” dẫn lại “Đại Thanh nhất thống chí” ghi rằng “Lại xét về tên Nhị Hà thì Hoàng Phúc nước Minh đắp thành Đại La, thấy nước sông chảy vòng quanh như hình cái vành tai, bèn đặt tên này” , với nghĩa là “sông” mà hiện nay nó chỉ thấy lưu lại ở tên riêng như sông Lô, sông La, Lô Giang hay tồn tại ở thành tố chỉ tên chung như rào Quán, rào Nậy, rào Con (ở Hà Tĩnh) v.v. Dựa vào tính chất phương ngữ Việt và phạm vi địa lý sử dụng của các họ ngôn ngữ ở địa bàn Đông Nam Á, dạng thức ngữ âm xưa (ong) ~ (ương) tuy có khác biệt về nguyên âm là đơn nhưng vẫn có thể giải thích được lý do.
Chẳng hạn, trong tiếng Việt chúng ta gặp không ít những cách nói nước đôi do sự khác nhau giữa nguyên âm đơn/đôi như giong buồm/ giương buồm, đàng/đường, màu hồng/ màu hường, náng thịt/ nướng thịt, nói ngọng/nói ngượng, trọng nghĩa/ trượng nghĩa v.v. Chính sự hiện diện ở phần vần của âm tiết là nguyên âm đơn với ba nguyên âm có độ mở khác nhau là mà có.
4.Như vậy là, qua mười tên gọi khác nhau của sông Hồng và một số biến thể của chúng, có thể nhận thấy những tên gọi ban đầu dường như là những tên gọi có gốc gác Nam Á và Thái – Kađai. Về sau, trừ trường hợp tên gọi “sông Cái”, những tên gọi Nam Á và Thái – Kađai ấy đều bị “Hán hoá” hay “Hán – Việt” để có dạng thức như ngày nay.
4.1. Trước hết, chúng ta nói về tình trạng tên gọi xét theo nguồn gốc ngôn ngữ.
Khác với tên gọi sôngŋ]. Tên gọi này, như vậy, bắt nguồn từ danh từ chung nghĩa ban đầu là “sông”. Về sau, nó trở thành yếu tố địa danh chỉ tên riêng trong một phức thể địa danh “sông Cái, tên gọi Phú Lương dẫn xuất từ lương hoặc long, công, Sông“. Và sau nữa, khi Hán hoá, yếu tố Sông trong phức thể địa danh “sông Sông” chuyển thành Phú Lương và ta có địa danh “sông Phú Lương” như ngày nay. Tương tự như vậy, tên gọi Lô/Lô Giang dẫn xuất từ lô, la, rào < [*lo], một danh từ chung với nghĩa ban đầu là “sông”. Trường hợp này, nó trở thành yếu tố địa danh chỉ tên riêng trong một phức thể địa danh “sông Lô“. Và khi Hán hoá, yếu tố Lô trong phức thể địa danh “sông Lô” hoặc chuyển thành song tiết Lô Giang hoặc vẫn đơn tiết là Lô như chúng ta có hiện nay. rông, rằng < [*kl ɔ ŋ/kr ɔ
4.2. Nếu sự nhìn nhận nguồn gốc ngôn ngữ và cách thức đặt tên của địa danh sông Hồng như trên có thể chấp nhận được, rõ ràng chúng ta có chứng cớ để suy luận về một hiện tượng văn hoá. Nói khác đi, người ta có cơ sở để nêu ra một vài nhận xét thú vị sau đây.
Từ góc nhìn văn hoá, người ta thấy rằng tên gọi sông Hồng là một sự hội tụ hay hoà hợp của hai cộng đồng cư dân sử dụng hai hệ ngôn ngữ Nam Á (Austroasiatic) và Thái – Kađai (Tai – Kadai). Trong đó, họ ngôn ngữ Nam Á là họ ngôn ngữ của cư dân bản địa ở vùng Đông Nam Á hiện nay và thuộc vào nhiều nhánh khác nhau; còn đối cư dân họ Thái – Kađai, dường như vào thời cổ xưa, sông Hồng là ranh giới Tây Nam của cộng đồng cư dân này. Về sau, các địa danh của cư dân hai họ ngôn ngữ ban đầu ấy đều bị cư dân Hán hoá rồi bị Hán – Việt hoá. Rõ ràng, tên gọi sông Hồng là một sự hội nhập, đan xen văn hoá của những lớp cư dân có nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau trong lịch sử.
1. Đào Duy Anh (1997), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hoá, Huế 1997, 263 tr.
2. Nguyễn Tài Cẩn (1989), Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán – Việt, Nxb ĐH&THCN, Hà Nội ; Tái bản Nxb ĐHQGHN (2000), Hà Nội, 354tr.
– (1995), Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (Sơ thảo), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 348tr.
– (2001), Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hoá, Nxb ĐHQG Hà Nội, 439 tr.
3. Hoàng Thi Châu (1964), Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông, Thông báo khoa học, Đại học Tổng hợp Hà Nội, tập 3, tr 94-106.
4. Phan Huy Chú (1960), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nxb Sử học, Hà Nội, 352 tr.
– (1997), Hoàng Việt địa dư chí, Nxb Thuận Hoá, Huế.
5. Trần Trí Dõi (1999), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, NXb ĐHQG Hà Nội, 301 tr.( tái bản 2000)
– (2001), Ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá xã hội, Nxb Văn hoá Thông tin, 266 tr
– (2005), Giáo trình lịch sử tiếng Việt (sơ thảo), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 2005, 268 tr.
– (2005), Tiếp tục tìm hiểu về xuất xứ và ý nghĩa địa danh Cổ Loa (…), Ngôn ngữ 11(198)/11-2005, tr 21-27.
6. Ngô Sỹ Liên (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1998,
7. Quốc sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam nhất thống chí, Nxb Thuận Hoá, Huế 1997, Tập 3, Tập 4.
8.Quốc sử quán triều Nguyễn (2003), Đồng Khánh dư địa chí, Nxb Thế giới, Hà Nội 2003.
9. Nguyễn Văn Siêu (1997), Đại Việt địa dư toàn biên, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
– (2003), Phương Đình dư địa chí, Nxb Thế giới, Hà Nội 2003.
10. Ngô Thì Sỹ (1997), Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1998.
--- Bài cũ hơn ---
Sông Hồng Bồi Đắp Văn Hoá Người Hà Nội
Tại Sao Game Tôi Chơi Lại Biến Thành Bản Cao H Chương 6: Tiểu Thiếu Gia Đồi Trụy,
Hướng Dẫn Tính Toán Nhanh Khi File Excel Nặng Hay Quá Nhiều Công Thức
Chúng Ta Bắt Đầu Yêu Sau Khi Cưới Full Hd
Chính Là Chờ Em Nói Yêu Anh