Top 10 # Xem Nhiều Nhất Tìm Hiểu Lịch Sử 1010 Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Cuocthitainang2010.com

Tìm Hiểu Lịch Sử Trà Vinh

BÀI THI Tìm hiểu về lịch sử đấu tranh của Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang tỉnh Trà Vinh và những thành tựu 25 năm tái lập tỉnh.Họ và tên: Thạch Thị Sáu Năm sinh: 1980.Chức vụ: Giáo viênĐơn vị: Trường Mẫu Giáo Song Lộc.Số điện thoại: 01692879434 gmail: thachthisau34@gmail.com.

TRẢ LỜI CÂU HỎI

Câu 1: Trình bày khái quát lịch sử hình thành vùng đất và con người Trà Vinh? Đồng thời nêu lên các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc ở Trà Vinh.Trải qua những thăng trầm vì bị chi phối bởi những quy luật kiến tạo địa chất cùng những lần “biển tiến, biển lùi”, vùng đất có tên gọi “Trà Vang” – tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này đã được hình thành từ lâu đời. Vào thời kỳ đó, Trà Vinh vẫn còn là một vùng đất rất hoang vu, các loại cây rừng trùm lên những giồng đất, những đầm lầy và sông rạch chằng chịt, dân cư thưa thớt. Vào thế kỷ XVII, các quốc gia phong kiến như Việt Nam, Trung Quốc, Campuchia….trong bối cảnh chung của thế giới đã không tránh khỏi sự khủng hoảng và suy yếu. Ở Việt Nam, cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn (1627-1673) đã chia cắt đất nước thành hai xứ: Đàng trong và Đàng ngoài (lấy sông Gianh làm ranh giới). Điều này đã làm cho hàng vạn nông dân lâm vào thảm họa bị tiêu diệt, phải đi tìm cõi sống ở Phương Nam. Trước thực tế khách quan đó, vào cuối thế kỷ thứ XVII, các Chúa Nguyễn đã chủ động tổ chức di dân người Việt vào vùng đất Nam bộ, thực thi những chính sách chiêu mộ lưu dân và đưa quân đội vào Nam khai phá đất đai. Cùng với người Việt và người Khmer, người Hoa cũng được Chúa Nguyễn tạo điều kiện để cùng nhau khai phá và định cư trên vùng đất phía Nam này, trong đó có vùng đất Trà Vinh. Như vậy, vùng đất Trà Vinh, con đẻ của Biển Đông và sông Cửu Long, một vùng đất chứa đựng một hệ sinh thái đa dạng cùng với nhiều tiềm năng kinh tế khác nhau, vào thế kỷ thứ XVII đã có chủ nhân là một cộng đồng dân cư đa dân tộc (Việt, Khmer, Hoa…). Sự hình thành một cộng đồng dân cư đa dân tộc trên vùng đất này là một trong những sự kiện lịch sử có ý nghĩa cực kỳ trọng đại đối với sự hình thành và phát triển của tỉnh Trà Vinh sau này.Sự hình thành và phát triển của tỉnh Trà Vinh có thể được chia thành 2 giai đoạn sau:Giai đoạn 1: từ năm 1732 đến năm 1900.Vùng đất và tên gọi “Trà Vang”, tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này đã có từ trước khi Chúa Nguyễn lập Châu Định Viễn, dựng Dinh Long Hồ vào năm 1732. Như vậy, lúc bấy giờ đất Trà Vinh thuộc Châu Định Viễn. Năm 1802, sau khi lên ngôi, Vua Gia Long bắt tay ngay vào việc sắp xếp và phân định lại ranh giới các đơn vị hành chính trên toàn quốc. Từ đó, Gia Định phủ được đổi thành Gia Định Trấn. Lãnh thổ Gia Định Trấn được phân chia thành 4 dinh và 1 trấn phụ, vùng đất Trà Vinh lúc này thuộc Dinh Vĩnh Trấn. Năm 1803, Vua Gia Long cho lập địa đồ các dinh thuộc Gia Định Trấn và đổi Dinh Vĩnh Trấn thành Dinh Hoằng Trấn. Vùng đất Trà Vinh lúc này thuộc Dinh Hoằng Trấn Năm 1808, Gia Long đổi Gia Định Trấn thành Gia Định Thành, Dinh Vĩnh Trấn được đổi thành Trấn Vĩnh Thanh. Lúc bấy giờ, vùng đất Trà Vinh thuộc Trấn Vĩnh Thanh. Năm 1825, vùng đất Trà Vinh được Vua Minh Mạng lập thành Phủ Lạc Hóa trực thuộc Gia Định Thành gồm hai huyện Trà Vinh và Tuân Mỹ. Đến năm 1832, Trấn Vĩnh Thanh được đổi tên là Trấn Vĩnh chúng tôi đó, Vua Minh Mạng cho đổi các trấn thành tỉnh. Vùng đất Nam Bộ được chia thành sáu tỉnh, gọi là “Nam Kỳ lục tỉnh” gồm: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Lúc này, Trà Vinh là một huyện thuộc Phủ Lạc Hóa tỉnh Vĩnh Long. Năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định phân chia toàn bộ Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn. Trên cơ sở phân chia đó, khu vực hành chính lớn Vĩnh Long gồm 4 tiểu khu: Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Sa Đéc. Tiểu khu Trà Vinh là tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này. Ngày 20/12/1899, Toàn quyền Đông Dương Doumer ký nghị định đổi tên gọi tiểu khu thành tỉnh. Từ đây Nam Kỳ lục tỉnh cũ được phân chia lại thành 10 tỉnh mới, tỉnh Vĩnh Long cũ được tách ra thành

Tìm Hiểu Lịch Sử Côn Đảo

Đến với du lịch Côn Đảo không thể bỏ qua lịch sử hào hùng của vùng đất này thông qua các di tích ý nghĩa:

Bảo Tàng Côn Đảo: Trước đây là nơi ở và làm việc của các đời chúa đảo. Đến với bảo tàng, bạn có cơ hội tìm hiểu lịch sử hình thành Côn Đảo thông qua các hiện vật, cổ vật, hình ảnh và các tư liệu từ thời Pháp thuộc đến nay.

Trại tù Phú Sơn, Phú Hải Côn Đảo: Nơi giam giữ các tù binh cộng sản thời Pháp và Mỹ

Khu di tích Chuồng Cọp: Tìm hiểu cuộc sống, các cách tra tấn dã man, nơi sinh hoạt của các tù binh bị giam cầm, đây cũng là nơi giam giữ chị Võ Thị Sáu.

Nghĩa trang Hàng Dương: nơi có mộ của hơn 2000 liệt sĩ và mộ Võ Thị Sáu là điểm không thể bỏ qua.Đến đây ngoài thắp hương, bạn nên chuẩn bị đồ lễ, không thể thiếu gương lược.Nếu mang được hoa tươi thì càng tốt, nên dùng hoa trắng.

Rừng nguyên sinh Ông Đụng: Từ Côn Đảo, bạn có thể đi về phía Tây, trải nghiệm chuyến trekking 20 phút, băng qua rừng nguyên sinh Ông Đụng. Những hàng cây nhiệt đới xanh mát, hoang sơ dẫn đến bãi biển xinh đẹp cuối rừng.

Hòn Bảy Cạnh: lên tàu đi tham quan hòn Bảy cạnh, hòn đảo lớn thứ hai trong số 16 hòn đảo thuộc quần đảo Côn Đảo. Toàn bộ đảo được che phủ bởi rừng nhiệt đới nguyên sinh.Đến đây ngoài tham quan, bạn có thể đăng ký tour lặn ngắm san hô hấp dẫn.

Hòn Tre: cũng là địa điểm tham quan hấp dẫn của du lịch Côn Đảo.

Vịnh Đầm Tre: với cảnh quan tự nhiên, kín gió, có rừng ngập mặn bao bọc xung quanh.Tại đây, du khách có thể tham quan rừng ngập mặn, bơi lặn ngắm san hô, xem chim yến làm tổ trong mùa sinh sản và nhiều loài sinh vật biển khá. Trên đường đi tha hồ ngắm cảnh đẹp của vịnh Côn Sơn, mũi Lò Vôi, bãi biển Đất Dốc, mũi Chim Chim, vịnh Đông Bắc…

Tìm Hiểu Lịch Sử Phật Giáo Tây Tạng

Phật giáo có nguồn gốc lâu đời từ Ấn Độ, ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Lịch sử, truyền thuyết, và nhân loại đều công nhận Phật giáo được khai sáng bởi Đức Phật Thích Ca Mầu Ni(Shakyamuni Buddha). Truyện kể về cuộc đời của Đức Phật từ khi đản sinh cho đến khi lập gia đình là năm 16 tuổi; năm 29 tuổi thái tử Tất Đạt Đa (Siddhārtha) quyết chí xuất gia tu hành tìm đường diệt khổ; đến năm 35 tuổi giác ngộ ra chân lý, đắc đạo và trở thành Phật. Trong suốt 45 năm sau đó Ngài đi thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh rồi cuối cùng viên tịch nhập niết bàn vào năm 80 tuổi.

Bản thân Đại thừa lại được chia ra nhiều bộ phái khác nhau truyền qua các vùng Tây Tạng, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Về mặt thời gian, Đại thừa Phật giáo gồm ba kỳ: Sơ kỳ, Trung kỳ và Vãn kỳ. Phật giáo Tây Tạng là sự khai triển độc đáo của Đại thừa Mật giáo thời Vãn kỳ kết hợp uyển chuyển với những nét văn hoá lâu đời của người bản xứ đã có mặt trước đó trên cao nguyên Thanh Tạng hàng trăm năm, trải qua quá trình sàng lọc, tôn vinh, và cả những cách tân, biến cải, song song là sự giao thoa liên tục với Phật giáo Nepal và Trung Quốc; đã xây dựng nên một thế giới tâm linh huyền bí, một tinh hoa Phật giáo có lẽ là rực rỡ nhất trong lịch sử nhân loại!

Lịch Sử Phật Giáo Tây Tạng

Thời Phật giáo Tiền truyền:

Đi ngược dòng thời gian, sử cũ chép chuyện vua Nam Nhật Tùng Tán (hay Luân Tố Tán, Namri Songtsen) – vị vua đời thứ 32 của Tây Tạng – đã xây dựng vương triều Nhã Lung (Yarlung) trong lòng thung lũng Nhã Lung, quân đội của người Tạng khi đó hung mãnh, bách chiến bách thắng. Nhưng phải đến thời con trai ông là vua Tùng Tán Cương Bố (hay Khí Tông Lộng Tán, Songtsen Gampo) (629-650) thì quốc gia Thổ Phồn mới thực sự thống nhất và hùng cường. Sau khi tiêu diệt nước Thổ Cốc Hồn (1 hãn quốc ra đời trong loạn Ngũ Hồ thập lục quốc của Trung Hoa – nay thuộc tỉnh Thanh Hải), ông tiến về phía Đông và bang giao với nhà Đường (nhắm vào thời kỳ vua Đường Thái Tông). Bước ngoặt lịch sử bắt đầu từ đây, vua Đường Thái Tông đem cháu gái của mình là công chúa Văn Thành (Princess Wencheng) gả cho vua Songtsen Gampo. Cùng lúc đó, trong cuộc chiến đánh xuống phía Nam chinh phục nước Ni Bạc Nhĩ (hay Nepal ngày nay), vua kết hôn với công chúa Nepali Ba Lợi Khố Cơ (Princess Bhrikuti Devi). Hai cuộc hôn phối với hai công chúa đều là đệ tử Phật giáo, lại thêm những ảnh hưởng tất yếu đến từ vùng biên ngoại (mà ở đây là Ấn Độ và Trung Quốc), đã hun đúc tinh thần Phật giáo từ từ nhưng mạnh mẽ giữa lòng Tây Tạng – mà khi đó vẫn còn theo quốc giáo cũ Bon.

Vua Songtsen Gampo sau đó cho ban hành Thập Hiền Thiện (mười điều hiền thiện) và Thập lục Yếu (mười sáu yếu luật) lấy Phật giáo làm kim chỉ nam để răn dạy dân chúng. Còn hai hoàng hậu của ông mang theo những tài sản vô giá từ đất nước mình như tượng Phật A Súc Kim Cương, tượng Phật Di Lặc, tượng Quán Thế Âm Bồ Tát, tượng thái tử Tất Đạt Đa, tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Phật, cùng kinh luận và văn vật khác, kèm theo các Tăng Ni tháp tùng. Có lẽ là nhân duyên hay cũng là định mệnh lịch sử, sự khác nhau về hình thái và triết lý Phật giáo của Ấn Độ – Nepal – Trung Quốc không những không bài trừ nhau mà còn dung hoà, bổ sung cho nhau, tô thắm sắc màu đa dạng của Phật giáo Tây Tạng. Do đó, người ta sau này ghi công khai phá Phật giáo lớn nhất cho vua Tùng Tán Cương Bố, và tất nhiên không thể quên vinh danh hai hoàng hậu của ông. Họ sùng bái hai bà như Đa La Thiên Nữ (Tara), là người mẹ cứu độ chúng sinh (Độ Mẫu nữ tôn của Mật tông): coi công chúa Văn Thành là hoá thân của Thanh Đa La (Green Tara), và công chúa Ba Lợi Khố Cơ là hoá thân của Bạch Đa La (White Tara). Cũng phải để ý rằng, từ đây người dân Tây Tạng không chỉ sùng bái Phật giáo mà còn coi trọng các vị vua của họ ngang với Phật, coi các vị vua và những người nổi tiếng là hoá thân nhiều kiếp của Phật.

Để có nơi thờ cúng và lễ kính Tam Bảo (Tam Bảo bao gồm Phật Bảo Buddha – nơi thờ Phật, Pháp Bảo Dharma – lưu trữ kinh sách giáo pháp, và Tăng Bảo Sangha – nơi học tập tu dưỡng của tăng ni), vua Songtsen Gampo đã lấy vùng Lạp Tát (Lhasa) làm trung tâm và cho dựng hành cung Bố Đạt La (Potala). Đồng thời để có sự phân biệt giữa hai hoàng hậu, vua đã cho xây 2 ngôi chùa: Đại Chiêu Tự (Jokhang Temple) và Tiểu Chiêu Tự. Đại Chiêu Tự dành cho công chúa Văn Thành thờ tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, còn Tiểu Chiêu Tự dành cho công chúa Ba Lợi Khố Cơ thờ đức Đông Phương A Súc Phật (Kim Cương Phật).. Đại Chiêu Tự ngày nay vẫn còn được bảo quản tốt và đón du khách vào tham quan, chỉ có Tiểu Chiêu Tự đã bị huỷ hoại sau Cách mạng văn hoá.

Vua Songsten Gampo mất đi, vương triều Thổ Phồn lại tục truyền thêm 4 đời nữa và tiếp bước khuyếch trương Phật giáo. Đến giai đoạn những năm 680-742, vua Xích Đức Tổ Tán (hay Khí Đãi Xúc Tán, Me Agtsom) lại được vua Đường Trung Tông đem công chúa Kim Thành (Princess Jincheng) gả cho. Kim Thành công chúa cũng là một Phật tử, bà đã mang vào Tây Tạng vô vàn Phật điển và Dược học, Số học của Trung Quốc. Từ đây các tài liệu quý báu này được dần dần dịch ra Tạng văn và lưu truyền rộng rãi. Đặc biệt hơn, con trai bà, mà sau này trở thành vua Xích Tùng Đức Tán (hay Cật Phiêu Song Đề, Trisong Detsen) (755-780) là người có công lớn trong việc đưa Phật giáo lên một tầng hưng thịnh nữa, thoát khỏi vòng suy vong do sự bài xích phe phái cũng như áp lực ngầm của cổ giáo Bon. Sức mạnh quân sự của thời vua Xích Tùng Đức Tán thậm chí còn vượt xa giai đoạn vua Tùng Tán Cương Bố; biên giới Tây Tạng bành trướng ra Thanh Hải, Tứ Xuyên; có lúc quân đội Thổ Phồn còn vây hãm Trường An và đánh sang Ấn Độ. Vua cũng là người cho xây dựng Tu viện Phật giáo đầu tiên ở Tây Tạng: tu viện Tang Diên (Samye Monastery), thuộc địa giới vùng U. Tu viện này được xây trong vòng gần 20 năm, có kiến trúc độc đáo gồm 3 tầng lớn mà tầng 1 theo phong cách người Tạng, tầng 2 xây theo phong cách nhà Đường, và tầng 3 là dựa theo cấu trúc Ấn Độ.

Một sự kiện quan trọng khác đó là việc vua Xích Tùng Đức Tán khi còn tại vị đã thỉnh được đại sư Liên Hoa Sinh (Padmasambhava) từ Ấn Độ sang Tây Tạng để truyền đạo. Không giống như những người đã từng đi truyền đạo Phật ở Tây Tạng trước đó, đại sư Liên Hoa Sinh đã là người đạt được đại thành tựu (Guru Rinpoche) về Mật tông, hiểu được sự khác biệt của cổ giáo Bon so với Phật giáo: đó là sự tôn sùng quỷ thần và bùa chú của Bon giáo! Ông cùng 25 đệ tử dùng lý luận Phật môn kết hợp với Mật chú hàng phục yêu ma, đem sức mạnh yêu ma biến thành uy lực hộ pháp cho cửa Phật, dần dần như thế đã cảm hoá và dẫn dụ người dân Tây Tạng tình nguyên quy y Tam Bảo. Từ đây đánh dấu sự ra đời của tông Ninh Mã (Nyingma Sect) – tông đầu tiên của Phật giáo Tây Tạng mang hoàn toàn bản sắc riêng của mảnh đất cao nguyên này Phái Ning Mã có sắc phục mũ đỏ, nên còn được gọi là Hồng Mạo Giáo; Liên Hoa Sinh được coi là sư tổ của tông phái này. Dấu ấn của phái Ninh Mã rõ ràng nhất ở vùng Kham – phía Đông Tây Tạng, thể hiện ở những tu viện như Lamaling Monastery (thuộc Nyingchi), Tsozong Monastery (trên hồ Basum-tso)

Dòng thời gian lại trôi chảy, đến giai đoạn 818-838, vua Tạng đời thứ 41 là Xích Tổ Đức Tán (Tri Ralpacan) lại xây dựng sức mạnh quân sự của Thổ Phồn đến mức cực thịnh và tiếp tục chiến tranh với nhà Đường. Khiếp sợ uy thế Tạng vương, nhà Đường với nước Thổ Phồn đã đồng ý ký minh thệ Sinh Cửu Liên Minh Bia để thương thuyết hoà bình cho vùng biên cảnh (the Sino-Tibetan treaty); cho lập 3 bia đá khắc lại văn kiện này: một bia giữ ở cửa đền Jokhang trong thành phố Lhasa, một bia giữ ở biên giới 2 nước, và một bia giữ trong kinh thành Trường An (Xian). Đến nay 2 văn bia sau đã mất, chỉ còn lại văn bia trong Lhasa nhưng chữ khắc phần lớn đã mai một không đọc được. Theo bản sao văn bia mà người Anh có ở London, trên bia khắc: “… Dân Phồn thổ an nơi Phồn thổ, Hán tộc trọn vui nơi Đường quốc, ấy là nghiệp lớn của vua hai nước. Đôi bên giữ gìn minh thệ, vĩnh viễn không đổi dời …”. Vua Xích Tổ Đức Tán cũng chính là người cho dịch mới và dịch lại tất cả kinh sách cho nghiêm trang và phù hợp với Tạng văn hơn, chuyển thể tất cả những tinh tuý Phật môn từ tiếng Phạn (Sanskrit) sang tiếng Tạng (Tibetan), từ đó tổng hợp thành Đại Từ Điển Phạn-Tạng (Mahàvyutpaatti) nổi tiếng. Với những cống hiến to lớn ấy, người dân Tây Tạng luôn thờ phụng vua Xích Tổ Đức Tán (Tri Ralpacan) cùng với vua Tùng Tán Cán Bố (Songtsen Gampo) và vua Xích Tùng Đức Tán (Trisong Detsen) là Tam Tạng Vương vĩ đại nhất (three Dharma Kings).

Nhưng phàm ở đời có Sinh có Diệt, có Thịnh có Suy, Phật giáo Tây Tạng chứng kiến những thời khắc huy hoàng trải qua mười mấy đời Tạng vương cũng đến lúc suy vi mà nguyên nhân chính xuất phát từ hình thái xã hội phức tạp của Tây Tạng lúc bấy giờ. Vì Phật giáo được vương triều hoằng trương, kéo theo sự ra đời của Tăng chế và những quy định về Tăng dưỡng (cung phụng chu cấp cho Tăng ni), kế đến là sự gia tăng của Tăng số đã đặt nặng gánh sưu thuế cho người dân. Trong hoàn cảnh đó, vua Xích Tùng Đức Tán bị em trai mình là Lãng Đạt Ma (Langdarma) – một người cổ xuý cho giáo pháp Bon – hãm hại. Sau khi lên ngôi, vua Lãng Đạt Ma (839-841) ra tay bức hại Phật giáo, đốt hết kinh sách, tiến hành bài Phật phá Phật trong vòng 5 năm, gần như thiêu huỷ hết những công tích gây dựng được cho Phật giáo bởi các Tạng vương đời trước!

Đến năm 842, vua Lãng Đạt Ma bị nhà sư Kiết Tường Kim Cang (Pelgyi Dorje) nhân màn múa Black Hat Dance bắn tên ám sát. Sau sự kiện đó, Phật giáo không những không được chấn hưng, ngược lại đẩy Tây Tạng rơi vào giai đoạn tranh quyền đoạt vị, nội chiến liên miên, cục diện thống nhất của vương triều Thổ Phồn đến đây coi như chấm dứt, thay vào đó là tình trạng cát cứ kéo dài gần trăm năm.

Thời Phật giáo Hậu truyền:

Sau 300 năm từ khi đại sư Liên Hoa Sinh vào Tây Tạng và có công khai tông lập phái cho Ninh Mã; người ta nhắc đến tên tuổi thứ hai: đại sư A Đề Sa (Atisha) đến từ Thiên Trúc, Ấn Độ năm 1042, là người có công chấn hưng Phật giáo lúc đó đang suy vong ở Tây Tạng. Từ đây trở về sau, lịch sử chứng kiến sự ra đời của 3 tông phái lớn còn lại của Tây Tạng mà ít nhiều đều chịu ảnh hưởng trực tiếp từ A Đề Sa.

Phái Ca Nhĩ Cư (Kagyupa Sect) là tông lớn thứ hai của Phật giáo Tây Tạng, tên của phái có nghĩa là dòng khẩu truyền được sáng lập bởi sư Mã Nhĩ Ba (Marpa Lotsawa) (1012-1097), học trò của đại sư A Đề Sa. Học trò chân truyền của Mã Nhĩ Ba là Mật Lặc Nhật Ba (Milarepa) là người rất giỏi thi ca với văn phong sắc diệu, đã thuyết giảng Đại Thừa – Tiểu Thừa – Mật Thừa để giáo hoá dân gian, trở thành người có công lớn trong việc hưng lại Phật giáo Tây Tạng, mà cụ thể ở đây là dòng Ca Nhĩ Cư. Một số thiền viện nổi tiếng của dòng Kagyupa Sect: Tsurphu Monastery (thuộc vùng U), Palpung Monastery (thuộc Tứ Xuyên ngày nay).

Phái Tát Ca (Sakya Sect) là tông lớn thứ ba của Phật giáo Tây Tạng do đại sư Cổn Khúc Già Bảo (Konchog Gyalpo) sáng lập nhằm thế kỷ 11, tương đương với nhà Bắc Tống bên Trung Hoa bấy giờ. Ông cũng cho xây tu viện Tát Ca (Sakya Monastery) nổi tiếng ở Shigatse thuộc vùng Tsang. Con cháu của ông sau này kế nghiệp tổ phụ tiếp tục khuyếch trương giáo pháp, đồng thời lại giữ quan hệ giao hảo với giới chính trị. Chính vì thế mà vào giai đoạn những năm 1260, khi cháu nội của Thành Cát Tư Hãn là Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt dựng cơ đồ Mông Cổ trong quan nội, Tây Tạng đã thần phục theo nhà Nguyên. Đây đánh dấu một mốc lịch sử lớn mà người Tạng từ đó quy thuận theo Trung Hoa, mất dần sự độc lập cường thịnh về chính trị quân sự so với mấy trăm năm trước. Đi cùng với sự cuốn hút của Tát Ca phái theo chính trị là sự tha hoá trong đạo đức và lối sống của các Lạt ma do cậy có nhà Nguyên bảo hộ. Đến khi nhà Nguyên thoái trào cũng là lúc ảnh hưởng của Sakya Sect mai một đi

Ba tông: Nyingma Sect, Kagyupa Sect, và Sakya Sect do đặc điểm trang phục tương tự nhau, dùng màu hồng đỏ làm trọng, nên thường được gọi chung là Hồng Mạo Giáo. Như vậy là để phân biệt với tông giáo thứ 4, cũng là tông giáo cuối cùng cực thịnh huy hoàng nhất của Phật giáo Tây Tạng, để lại nhiều dấu ấn văn hoá nhất cho đến cả ngày nay; đó là tông Cách Lỗ (Gelugpa Sect) hay còn gọi là Hoàng Mạo Giáo (Yellow Sect).

Phái Cách Lỗ (Gelugpa Sect) được 1 nhà cải cách lỗi lạc Tông Khách Ba (Tsongkhapa) (1357-1419) sáng lập, khi đó nhằm vào thời Vĩnh Lạc Minh Thành Tổ (con trai thứ hai của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương).

Tông Khách Ba vốn xuất thân từ Hồng Giáo, đã tu học qua giáo pháp của cả Kagyupa và Sakya Sect nhưng chú tâm hơn vào chấn chỉnh Phật giáo với mục đích đem các Lạt Ma đã bị thế tục hóa trở về lại đời sống của Tỳ Kheo có đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh. Sự uyên bác về giáo pháp, lại cẩn trọng nghiêm kính chuyên tâm tu học của Tông Khách Ba như thổi luồng gió mới vào Phật giáo Tây Tạng mà các cựu phái chưa có được, đã khích lệ Tăng lữ theo về rất đông. Sử chép trong Đại Tập Hội lần thứ nhất (Monlam Great Prayer Festival) quy tụ gần 12,000 vị Lạt Ma dưới tông Hoàng giáo. Sau này Gelugpa Sect lấy ngày rằm tháng giêng hàng năm làm ngày đại hội nhưng đến giai đoạn thế kỷ 20 đã bị chính quyền Trung Hoa cấm tổ chức.

Theo “Nhập Tạng Báo Cáo” của Ngô Trung Tín viết năm 1940 có ghi rõ những tu viện chủ yếu của Tây Tạng thì Hồng giáo có bảy ngôi, còn Hoàng giáo lên đến sáu mươi hai ngôi; cho thấy các tông phái Tây Tạng, Hoàng giáo tuy đến sau nhưng đứng đầu về số tu viện. Ngày nay những tu viện nổi tiếng nhất mà khách du lịch thường đến thăm đều thuộc Hoàng giáo, ví dụ như: tu viện Cam Đan (Ganden Monastery) ở Lhasa, tu viện Triết Phong (Deprung Monastery) ở Lhasa, tu viện Sắc Nhạ (Sera Monastery) ở Lhasa, tu viện Trát Thập Luân Bố (Tashilhunpo Monastery) ở Shigatse, tu viện Taer (Kumbum Monastery) ở Tây Ninh (Xining). Ở các đại tu viện này đều thờ phụng đại sư Tông Khách Ba, coi ông là đệ nhất tập đại thành, là bậc trí giả đã có thành tựu cải cách và xiển dương phái Cách Lỗ cũng như Phật giáo Tây Tạng.

Giai đoạn sau đại sư Tông Khách Ba cho đến ngày nay:

Nên chú ý rằng sau khi vương triều Thổ Phồn diệt vong, Tây Tạng chưa được thống nhất thành 1 chính thể. Phải đến khi Hoàng giáo cường thịnh thì tông này mặc nhiên giữ vai trò quyết định trong cả chính trị và tôn giáo toàn vùng; các triều vua Trung Hoa sau này đều thương thuyết mọi việc quốc gia với tập đoàn đứng đầu Hoàng giáo, coi đó là lãnh đạo tối cao của Tây Tạng – thể chế độc đáo này được gọi là chính-giáo hợp nhất

Lãnh tụ tối cao của Phật giáo Tây Tạng được gọi là Đạt Lai Lạt Ma (Dalai Lama). Danh hiệu này thực ra phải đến năm 1578 vua A Nhĩ Đát Hãn mới ban tặng cho Toả Lãng Gia Mục Thố (Sonam Gyatso) – tương đương với đời Đạt Lai Lạt Ma thứ 3; chữ có nghĩa là đức rộng như biển. Tổng cộng từ năm 1391 đến nay, Tây Tạng đã có tất cả 14 vị Đạt Lai Lạt Ma, từ vị đầu tiên là Căn Đôn Châu Ba (Gendun Drub) – vốn là đại đệ tử của Tông Khách Ba – cho đến vị thứ 14 là Đăng Châu Gia Mục Thố (Tenzin Gyatso); tương đương với các giai đoạn triều Minh, Thanh, và Trung Hoa Dân Quốc. Người Tây Tạng luôn sùng kính Đạt Lai Lạt Ma, coi đây là hiện thân của Phật sống và được đầu thai qua mỗi kiếp.

Đáng chú ý là vào đời Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 La Bốc Tạng Gia Mục Thố (Losang Gyatso), ông đã phong tặng danh hiệu Ban Thiền Lạt Ma(Panchen Lama) cho thầy học của mình La Tang Khúc Kết (Lobsang Choegyal), chữ có nghĩa là đại học giả. Danh hiệu “Ban thiền” ra đời từ đó; Ban Thiền Lạt Ma luôn song hành với Đạt Lai Lạt Ma, trở thành người giữ vị trí quan trọng thứ hai trong xã hội Tây Tạng, có trọng trách đi tìm Đạt Lai Lạt Ma mới và ngược lại! Người Tây Tạng cũng cho rằng Ban Thiền Lạt Ma là dòng tái sinh, sẽ được đầu thai qua nhiều đời. Từ giai đoạn 1358 đến nay đã có tổng cộng 11 vị Ban Thiền Lạt Ma. Giống như Đạt Lai Lạt Ma, Ban Thiền Lạt Ma đều thuộc dòng Hoàng Mạo.

Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 5 cũng là vị đại sư nổi danh nhất và được kính trọng nhất trong cộng đồng Tây Tạng. Ngài cũng là người đã cho trùng tu và mở rộng, xây mới lại cung điện Potala – vốn được xây từ thời vua Tùng Tán Cán Bố (Songtsen Gampo) nhưng đã bị huỷ hoại rất nhiều theo thời gian. Những thông tin đầy đủ về hành cung Potala sẽ được gửi đến bạn đọc trong cùng ngày 5, phần đi thăm Lhasa.

Quay trở lại dòng chảy lịch sử, giai đoạn từ những năm 1391 đến nay, Phật giáo Tây Tạng gần như không chuyển biến nhiều mà là sự duy trì và bảo tồn bản sắc riêng của tông phái Gelugpa vốn đã bén rễ rất sâu vào tín ngưỡng người dân nơi đây.

Migola Travel Sưu tầm và Tổng hợp

Tìm Hiểu Lịch Sử Điện Ảnh Trung Quốc

Điện ảnh Trung Quốc hay phim điện ảnh Trung Quốc (tức phim lẻ Trung Quốc) tính cho đến trước năm 1949 là nền văn hóa và công nghiệp điện ảnh nói tiếng Hoa của Trung Quốc đại lục, Hồng Kông và Đài Loan. Kể từ năm 1949, điện ảnh Trung Quốc được hiểu là nền điện ảnh của Đại lục do Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm quyền, nó tồn tại song song cùng hai nền điện ảnh nói tiếng Hoa khác là điện ảnh Hồng Kông và điện ảnh Đài Loan.

Sau một thời gian dài phát triển chậm chạp vì những biến cố chính trị, hiện nay cũng giống như nền kinh tế Trung Quốc, điện ảnh Trung Quốc cũng đang bùng nổ mạnh mẽ và trở thành một cường quốc điện ảnh thực sự ở khu vực châu Á.

Khác với điện ảnh Hồng Kông vốn sử dụng tiếng Quảng Đông là bản ngữ chính, các bộ phim của CHND Trung Hoa và Đài Loan đều là những bộ phim sử dụng tiếng Quan Thoại.

Lịch sử phim Hoa ngữ được chia thành ba dòng phát triển riêng biệt: điện ảnh Hồng Kông, điện ảnh Trung Quốc và điện ảnh Đài Loan. Sau năm 1949 và cho đến tận bây giờ, điện ảnh Trung Quốc đại lục phát triển dưới sự kìm hãm phần nào của Cộng Sản đảng, mặc dù một số lượng nhất định phim ảnh, tuy được phép trình chiếu tại nước ngoài, vẫn chịu sự kiểm duyệt thường xuyên hoặc bị cấm phát sóng.

Những ngày sơ khai: Thượng Hải – Trung tâm điện ảnh

Năm 1896, phim điện ảnh bắt đầu xuất hiện tại Trung Quốc. Những thước phim đầu tiên được ghi lại tại Thượng Hải vào ngày 11 tháng 8 năm 1896, dưới dạng một cảnh trong chương trình tạp kỹ. Bộ phim đầu tiên, “Định Quân Sơn”, một vở kinh kịch quay lại bằng kỹ thuật điện ảnh, ra đời vào tháng 11 năm 1905. Trong thập kỉ tiếp theo, các công ti sản xuất phim phần lớn nằm trong tay người nước ngoài, phải đến tận năm 1916, điện ảnh quốc nội mới thực sự khởi sắc, tập trung quanh Thượng Hải – trung tâm thương nghiệp và thành phố lớn nhất Viễn Đông lúc bấy giờ.

Trong những năm 1920, các nhà làm phim Trung Quốc được học hỏi kinh nghiệm và kỹ thuật điện ảnh từ Mỹ, vì vậy ảnh hưởng từ phim Mĩ còn kéo dài rõ rệt trong hai thập kỷ tiếp theo. Phải từ những năm 1930, những bộ phim mang màu sắc Trung Quốc mới thực sự ra đời, cùng với trào lưu nghệ thuật “cấp tiến” của những người “cánh tả” (xu hướng chính trị hướng tới sự bình đẳng cho tất cả mọi người). Những bộ phim tiêu biểu có thể kể đến: Xuân tằm (năm 1933), Đại lộ (năm 1935), Thần nữ (năm 1934). Trong giai đoạn này, Quốc Dân đảng đang nắm quyền, kiểm soát các xưởng phim lớn. Giai đoạn sau 1930 có thể coi là giai đoạn hoàng kim thứ nhất của điện ảnh Trung Hoa, cùng với sự xuất hiện của những ngôi sao điện ảnh đầu tiên: Nguyễn Linh Ngọc, Chu Tuyền, Triệu Đan.

Chiến tranh Trung – Nhật bùng nổ đã kết thúc thời kỳ hoàng kim đầu tiên của điện ảnh Trung Quốc. Ngoại trừ Tân Hoa, tất cả các hãng phim đều ngừng hoạt động. Nhiều hãng phim chạy đến lánh nạn tại Hong Kong, các vùng thuộc quyền kiểm soát của Cộng Sản đảng và Quốc Dân đảng.

Giai đoạn hoàng kim thứ hai: cuối thập niên 1940 và thời kì Cộng Sản

Hãng phim Văn Hóa, một trong hai hãng phim lớn nhất thuộc phái cánh tả, cũng đóng góp một số tác phẩm tiêu biểu. Tiểu thành chi xuân (năm 1948), một tác phẩm của đạo diễn người Thượng Hải, Phí Mục, được đánh giá là một trong những bộ phim xuất sắc nhất Trung Quốc mọi thời đại.

Năm 1949, sau chiến thắng của Cộng Sản đảng trước Quốc Dân đảng, chính quyền Cộng Sản không chỉ coi điện ảnh là một loại hình nghệ thuật mà còn là công cụ tuyên truyền quan trọng. Số lượng khán giả đến rạp đã tăng một cách chóng mặt, từ 47 triệu năm 1949 lên 4,15 tỉ lượt năm 1959. Trong vòng 17 năm kể từ khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập đến thời kì Cách Mạng Văn Hóa, 603 bộ phim, 8342 thước phim tài liệu và tin tức đã được sản xuất, đa phần là phim tuyên truyền. Các nhà làm phim Trung Quốc được cử đi học làm phim tại Liên Xô. Năm 1956, Học viện điện ảnh Bắc Kinh được thành lập. Bộ phim màn ảnh rộng đầu tiên của Trung Quốc ra đời năm 1960. Các bộ phim hoạt họa, sử dụng các loại hình nghệ thuật truyền thống, như cắt giấy, múa rối, rối bóng, vẽ tranh, cũng rất phổ biến đối với trẻ em. Từ năm 1956 đến đầu những năm 1960, các bộ phim mang đậm nét Trung Quốc hơn, thoát dần khỏi sự lệ thuộc vào Xô Viết. Nhà sản xuất phim tiêu biểu nhất của thời kỳ này, có lẽ là Tạ Tấn, với hai tác phẩm nổi tiếng: The Red Detachment of Women – Hồng sắc nương tử quân (năm 1961), Two Stage Sisters – Vũ đài tỉ muội (năm 1965).

Cách mạng Văn hóa và tàn dư: Thập niên 1960 đến 1980

Trong suốt thời kỳ Cách mạng Văn hóa, ngành công nghiệp điện ảnh bị ảnh hưởng nặng nề. Hầu hết các tác phẩm phim bị cấm lưu hành, chỉ có một số rất ít được sản xuất, trong đó có bản ba-lê của vở opera Hồng sắc nương tử quân. Các hoạt động sản xuất phim gần như bị đình trệ trong khoảng từ năm 1966 đến 1972.

Ngay trong những năm sau thời kì Cách Mạng Văn Hóa, ngành công nghiệp điện ảnh bắt đầu khởi sắc trở lại. Các bộ phim quốc nội phục vụ một lượng lớn khán giả, các lễ hội phim quốc tế luôn cháy vé. Để kéo khán giả trở lại rạp, các nhà sản xuất phim khai thác những đề tài mang tính sáng tạo và “khám phá” cao bắt nguồn từ Tây phương.

Những năm 1980, nền công nghiệp phim rơi vào khủng hoảng, vừa phải cạnh tranh với các loại hình giải trí khác, vừa phải đau đầu giải quyết vấn đề kiểm duyệt của chính quyền với những đề tài ăn khách như kinh dị hay võ thuật. Tháng 1 năm 1986, nền công nghiệp phim không còn chịu sự quản lý của Bộ Văn hóa, mà dưới quyền của Bộ Phát thanh, Điện ảnh và Truyền hình, một bộ mới thành lập, nhằm “thắt chặt kiểm soát và quản lý”, “nâng cao giám sát sản xuất”.

Sự kết thúc của Cách Mạng Văn Hóa dẫn tới sự ra đời của dòng phim bi kịch (năm vết sẹo), khắc họa những đau khổ, chấn thương tâm lí còn sót lại của thời kì lịch sử vừa trôi qua. Một trong những bộ phim nổi tiếng nhất, có lẽ là Phù Dung trấn (năm 1986) của đạo diễn Tạ Tấn.

Sự trỗi dậy của thế hệ thứ năm: Thập niên 1980 và 1990

Đầu những năm cuối thập niên 1980, sự trỗi dậy của thế hệ các nhà làm phim Trung Quốc thứ năm đã mang tên tuổi điện ảnh Trung Hoa đến trường quốc tế. Là những nhà sản xuất phim thuộc thế hệ đầu tiên sau Cách mạng Văn hóa, họ bỏ qua phương thức dựng phim truyền thống – kể chuyện – và tìm tòi những cách làm tự do hơn, phóng khoáng hơn. Hoàng thổ (năm 1984), đạo diễn Trần Khải Ca, quay phim Trương Nghệ Mưu, đánh dấu sự bắt đầu của thế hệ thứ năm. Trần Khải Ca và Trương Nghệ Mưu, sau đó tiếp tục cho ra đời các tác phẩm như Hài tử Vương (năm 1987), Bá Vương biệt cơ (năm 1993), Cúc đậu (năm 1989), Đèn lồng đỏ treo cao (năm 1991). Những bộ phim này không chỉ nhận được sự yêu mến từ khán giả trong nước mà còn từ cả người hâm mộ điện ảnh phương Tây. Các bộ phim của Điền Tráng Tráng, mặc dù ít được biết đến hơn với khán giá nước ngoài, nhưng lại nhận được nhiều sự chú ý từ giới chuyên môn, như Martin Scorsese (từng đoạt giải Oscar cho đạo diễn xuất sắc nhất với bộ phim The Departed – Điệp vụ Boston, 2006). Mang những khác biệt rõ nét từ nội dung đến phong cách thể hiện, các tác phẩm của thể hệ thứ năm trải dài từ bi hài kịch (The Black Cannon Incident của Hoàng Kiến Tân) đến phim có yếu tố huyền bí (Đời tựa sợi đàn của Trần Khải Ca). Một số các đạo diễn nổi tiếng khác: Ngô Tử Ngưu, Hồ Mai, Châu Hiểu Văn.

Thế hệ thứ tư cũng có sự trở lại ngoạn mục trong khoảng thời gian này. Họ là những đạo diễn vào nghề trước năm 1966, tuy nhiên sự nghiệp bị đình trệ bởi Cách mạng Văn hóa. Đặc biệt, Ngô Thiên Minh, thuộc hãng phim Tây An, đã có những đóng góp to lớn bằng cách giúp đỡ về tài chính cho các đạo diễn thuộc thế hệ thứ năm.

Thế hệ thứ sáu và nền công nghiệp điện ảnh: Thập niên 1990 đến nay

Giữa thập niên 1990, thế hệ đạo diễn tiếp theo của Trung Quốc, thế hệ thứ 6, bắt đầu thể hiện khả năng với các bộ phim mang đề tài hiện thực và cách nhìn mới mẻ về một xã hội Trung Quốc đang phát triển nhanh chóng. Tác phẩm tiêu biểu của thế hệ thứ 6 có thể kể tới Xe đạp Bắc Kinh (năm 2001) của Vương Tiểu Suất, Đông cung Tây cung (năm 1996) của Trương Nguyên, Sông Tô Châu (năm 2000) của Lâu Diệp.

Cùng với việc Hồng Kông trở về với Trung Quốc năm 1997 và sự phát triển kinh tế của Trung Quốc đại lục, ba nền điện ảnh tiếng Hoa bắt đầu có những tác phẩm hợp tác, đặc biệt là về đề tài phim lịch sử và phim kiếm hiệp vốn là sở trường của điện ảnh Trung Quốc ngay từ thời kỳ đầu. Năm 1999, tác phẩm hợp tác Ngọa hổ tàng long với đạo diễn Lý An người Đài Loan, được quay ở Trung Quốc, có dàn diễn viên nổi tiếng đến từ cả ba khu vực như Chu Nhuận Phát (Hồng Kông), Chương Tử Di ( Trung Quốc) và Trương Chấn (Đài Loan), đã thành công vang dội trên thị trường quốc tế và giúp điện ảnh ba khu vực này tìm được hướng đi mới, đó là các bộ phim kiếm hiệp pha trộn lịch sử có tính thương mại cao và tận dụng thế mạnh của mỗi nền điện ảnh. Năm 2002, bộ phim Anh hùng của Trương Nghệ Mưu theo hướng đi mới này đã thành công và đánh dấu sự hình thành của ngành công nghiệp điện ảnh mới ở Trung Quốc. Lấy bối cảnh lịch sử đời Tần Thủy Hoàng với rất nhiều cảnh quay đẹp ở Trung Quốc và dàn diễn viên toàn sao như Lý Liên Kiệt, Chương Tử Di, Trương Mạn Ngọc, Lương Triều Vĩ, Anh hùng đã phá kỉ lục doanh thu ở Trung Quốc, đồng thời đạt được doanh thu rất cao ở Châu Á và thậm chí là thị trường phim Mỹ.

Sự thành công của Ngọa hổ tàng long và Anh Hùng đã làm mờ đi rang giới giữa điện ảnh Trung Quốc đại lục và điện ảnh Hồng Kông, Đài Loan. Bộ phim Ngọa hổ tàng long với đạo diễn Lí An người Đài Loan, có diễn viên nổi tiếng đến từ Hong Kong (Châu Nhuận Phát), Đại lục (Chương Tử Di) và Đài Loan (Trương Chấn). Sự kết hợp giữa các yếu tố con người, nguồn lực, chuyên gia từ ba khu vực ( Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan) chứng tỏ điện ảnh Hoa ngữ đã nâng lên tầm đấu trường quốc tế.

Nếu du khách là fan của những bộ phim Hoa ngữ cổ trang thì nếu có dịp du lịch Trung Quốc không thể không tìm hiểu thêm về nền điện ảnh đặc sắc của đất nước này!

Lưu ý cho các du học sinh Việt Nam khi du học ở Trung Quốc năm 2021 – 2022

Điều kiện du học Trung Quốc cần có? ☎️ Gọi/Zalo: 0868.183.298

Source URL:https://www.tourtrungquoc.net.vn/van-hoa-am-thuc/tim-hieu-lich-su-dien-anh-trung-quoc.html

Nên chọn ngành gì là nỗi lo lắng của không ít sinh viên Việt Nam, Hiện nay Du Học Trung Quốc các ngành được quan tâm nhất là:

Du học Trung Quốc ngành Kinh tế: Luật quốc tế, Quản trị kinh doanh – MBA, Tài chính – Kế Toán

Du học Trung Quốc ngành Ngôn ngữ: Hán ngữ Tiếng Trung – Giáo dục Hán ngữ quốc tế – Biên dịch – Phiên dịch

1. Là công dân nước ngoài không mang hộ chiếu Trung Quốc.

2. Độ tuổi qui định: từ 18 tuổi đến dưới 35 tuổi.

3. Đối tượng: Học sinh đã tốt nghiệp THPT; sinh viên các trường trung cấp, cao đẳng, đại học tại Việt Nam; những người đã tốt nghiệp đại học, thạc sĩ.

4. Học lực: Tổng kết Học bạ 10-11-12 /Bảng điểmGPA 7.0 điểm trở lên.

DUHOCTRUNGQUOC.VN là Trung tâm tư vấn du học Trung Quốc tại chúng tôi (Hồ Chí Minh), Cung cấp thông tin Du học Trung Quốc năm 2021 nên chọn trường nào, điều kiện du học, hoàn thiện hồ sơ du học, chứng minh tài chính du học, Mở tài khoản ngân hàng, Xin visa du học. Du học kỳ Tháng 3/2021 – Du học kỳ Tháng 9/2021 – Du học kỳ Tháng 9/2022

Chi phí Du học 1 năm tiếng Trung 2021, Du học Đại Học, Du Học Thạc Sỹ, Du Học Tiến sỹ

Hồ sơ và điều kiện du học xin (Apply) – Học bổng CSC, Học Bổng Khổng tử, Học Bổng Tỉnh -Thành phố, Học Bổng Hiệu trưởng – Trường..vv

Vui lòng liên hệ ☎️ 0868-183-298 (Gọi hoặc nhắn tin Zalo)

Du học Trung Quốc ngành Kỹ thuật: Logistics – Vận tải – Kiến trúc – Xây dựng

Du học Trung Quốc ngành Nghệ thuật: Múa – Diễn viên – Điện ảnh – Đạo diễn – Biên tập phim – MC – Thanh nhạc – Ca sĩ

Du học Trung Quốc ngành Nông nghiệp: Công nghệ thực phẩm – Chế biến và chăn nuôi – Nông nghiệp – Thuỷ sản – Hải Sản

Danh sách hồ sơ du học gồm

Phổ thông trung học, cao đẳng, đại học

Học bạ /Bảng điểm Tổng kết GPA 7.0 điểm trở lên

Khám sức khỏe theo mẫu du học Trung Quốc

Giấy xác nhận hoặc lý lịch tư pháp số 1

Hộ chiếu Còn hạn tối thiểu 12 tháng

Khai chi tiết thông du học sinh, học vấn, gia đình…

(**) Chú ý: Tuỳ theo yêu cầu của mỗi trường ứng viên sẽ phải bổ sung thêm giấy tờ trong thời điểm làm hồ sơ du học, các giấy tờ phải được công chứng và dịch thuật thành Chinese hoặc English.

THỦ TỤC XIN VISA DU HỌC TRUNG QUỐC 2021

+ Giấy báo, thư mời nhập học và Form JW201/JW202 (Bản gốc + Bản photo khổ giấy A4) + Chứng minh thư hoặc Căn cước công dân, Sổ hộ khẩu (02 Bản photo khổ giấy A4) + Tờ khai xin visa Trung Quốc (Theo mẫu phát tại Lãnh sự/ Đại sứ quán Trung Quốc) + 02 ảnh 4×6 chụp trong thời gian gần nhất, nền trắng + Phí xin visa du học Trung Quốc 1 lần: Loại Phổ Thông: 685,000đ (60USD) – Loại Nhanh: 685,000đ (85USD) – Loại Gấp: 1,028,000đ (97USD)

VISA DU HỌC TRUNG QUỐC GỒM NHỮNG LOẠI NÀO?

Visa X là loại visa được cấp cho học sinh, sinh viên đến Trung Quốc du học hoặc giáo viên đến học nâng cao trong thời hạn quy định.

2.Visa X2: cho khóa du học ngắn hạn

Visa X2 cấp cho du học sinh tham gia khóa học ngắn hạn dưới <180 ngày: khóa học tiếng Trung bồi dưỡng Hán Ngữ, Trao đổi du học sinh, Học nghề..

1. Visa X1: cho khóa du học dài ngày

TRUNG TÂM DỊCH VỤ VISA DU HỌC TRUNG QUỐC – HONGKONG – MACAU

1. Trung tâm dịch vụ visa Du học Trung Quốc tại Tp. Hồ Chí Minh – XEM BẢN ĐỒ GOOGLE Địa chỉ: P1607-1609, Lầu 16, Saigon Trade Center, 37 Đường Tôn Đức Thắng, Bến Nghé, Quận 1, Hồ Chí Minh Điện thoại: 1900 561599 – Email: hcmcenter@visaforchina.org

2. Trung tâm dịch vụ visa Du học Trung Quốc tại Hà Nội – XEM BẢN ĐỒ GOOGLE Địa chỉ: Số 7 Tầng 7, Tòa nhà Trường Thịnh, Tràng An Complex, Số 1 Đường Phùng Chí Kiên, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội

Điện thoại: (024) 3275 3888 – Email :hanoicenter@visaforchina.org

3. Trung tâm dịch vụ visa Du học Trung Quốc tại Đà Nẵng – XEM BẢN ĐỒ GOOGLE Địa chỉ: Unit B, Tầng 8, tòa nhà Indochina Riverside Towers, 74 Bạch Đằng, Quận Hải Châu, Đà Nẵng

Điện thoại: (023) 6382 2211 – Email:danangcenter@visaforchina.org

THÔNG TIN DU HỌC TRUNG QUỐC 2021 – 2022

NHẮN TIN TƯ VẤN – GỌI: 0868-183-298