Tìm Hiểu Chi Tiết Về Nhà Thơ Hồ Xuân Hương
--- Bài mới hơn ---
Vị trí:
– Hồ Xuân Hương – một nữ sĩ tài năng và độc đáo trong lịch sử văn học Việt Nam, từng được thi sĩ Xuân Diệu tôn vinh là “Bà Chúa thơ Nôm”.
– Thơ của Xuân Hương đã góp phần làm cho đời sống văn học trở nên sôi nổi với hàng trăm bài viết, hàng trăm ý kiến khác nhau về thơ bà. Ý kiến về thơ của bà, đặc biệt là mảng thơ Nôm, dù khen hay chê, tất thảy đều mạnh mẽ, quyết liệt và thậm chí trái ngược nhau như nước với lửa. Thời gian trôi qua, những xúc cảm nóng bỏng và đầy tính nhân bản về những gì bà viết ở người đọc chuyển dần sang sự nghiền ngẫm kĩ lưỡng. Và người đời cũng đã đánh giá tài năng văn chương của Xuân Hương một cách khách quan hơn qua những trang viết thận trọng. Điều đó thật dễ hiểu khi tên tuổi của Hồ Xuân Hương được đặt cạnh thi hào Nguyễn Trãi, Nguyễn Du…
– Hơn thế nữa, cái tên ấy đã vượt tầm biên giới tổ quốc để sánh vai cùng các thi sĩ đại tài, nổi tiếng trên thế giới khi thơ của bà được chọn dịch và giới thiệu ra nước ngoài. Nữ sĩ họ Hồ có được vị trí đặc biệt ấy trên văn đàn là bởi những tư tưởng, những vấn đề mà bà đã đề cập được soi sáng ở mọi thời điểm và vào lúc nào vấn đề đó cũng mới, cũng lạ, cũng gây hứng thú vô cùng cho người đọc. Những điều đó không nằm ngoài khát vọng của con người về hạnh phúc, về tình yêu… nhằm thỏa mãn mọi nhu cầu “tự nhiên”, rất “bản chất” của con người.
Tiểu sử và thời đại:
Tiểu sử:
- Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong lịch sử văn học dân tộc. Đối với người Việt Nam, tên tuổi của Hồ Xuân Hương quen thuộc không kém bất cứ một nhà thơ nào.
- Đáng tiếc là về cuộc đời của nữ sĩ, chúng ta được biết quá ít. Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn còn nhiều điểm gây tranh cãi. Thậm chí có một vài ý kiến còn cho rằng những bài thơ được xem là của Hồ Xuân Hương hiện nay do nhiều người sáng tác, nghĩa là không có ai thực sự là Hồ Xuân Hương.
- “Bà Chúa thơ Nôm” là “con của Hồ Phi Diễn (1706-1783), quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An và một người thiếp quê ở Hải Dương”
- Năm sinh, năm mất, thân thế, cuộc đời, và thơ văn của bà đến nay vẫn còn vướng mắc nhiều nghi vấn. Ta chỉ biết bà sống vào thời Lê mạt Nguyễn sơ, người cùng thời với Nguyễn Du (1765-1820), Phạm Đình Hổ (tức Chiêu Hổ, 1768-1839). ( theo thống kê của nhiều tài liệu).
- Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, song hoàn cảnh cuộc sống đã giúp nữ sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những người phụ nữ bị áp bức trong xã hội.
- Bà là một phụ nữ thông minh, có học nhưng học hành cũng không được nhiều lắm, bà giao du rộng rãi với bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn, các nhà nho. Nữ sĩ còn là người từng đi du lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước.
- Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc. (Nhưng theo tài liệu của GS Hoàng Xuân Hãn và ông Lê Xuân Giáo thì nữ sĩ có tới 3 đời chồng chứ không phải hai: Tổng Cóc, Ông Phủ Vĩnh Tường, và cuối cùng là quan Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiến).
Thời đại:
- Hồ Xuân Hương là thiên tài đặc biệt của dân tộc Việt Nam. Nàng xuất thân ở tầng lớp bình dân. Điều này có ý nghĩa quan trọng, nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tâm hồn của Xuân Hương bất rễ khá sâu ở đời sống văn nghệ bình dân. Bà không lạ gì với những câu hát, ca dao, tục ngữ, những truyện tiếu lâm, với những câu đố “thanh mà tục, tục mà thanh”. Xuân Hương chịu ảnh hưởng của cuộc sống bình dân nên khi làm thơ thì những cảnh vật, phong tục … của người bình dân hiện lên rõ nét trong thơ bà. Lối thơ tả sự vật diễn đạt tâm tình cũng như lối biểu hiện và phô diễn của nàng đều mang nặng dấu ấn sâu sắc của thể cách bình dân đó.
- Hồ Xuân Hương sống vào thời Lê Mạc, thời mà các nhà nho thường gọi là “phong hóa suy đồi, cương thường đảo ngược” thời dâm ác của chúa Trịnh Sâm và bè lũ, thời anh giết em, con giết cha, vợ giết chồng … thời đắc thắng của Nguyễn Huệ, của bình dân Việt Nam. Những thời loạn như thế, con người sống không có đảm bảo. Luật pháp, tôn giáo, lễ nghĩa … không đủ sức để che chở con người chống lại những tai họa bất ngờ. Con người chỉ còn biết nghĩ đến mình, nghĩ đến giờ phút hiện tại, nghĩ đến tối thiểu an ninh cho bản thân mình. Lòng khát sống, thèm hưởng thụ nảy nở. Trong các thứ hạnh phúc, chỉ có hạnh phúc vật chất là cái mà con người còn có thể hưởng được ít nhiều. Mặt khác vì không bị luật lệ, luân lý phong kiến ràng buộc nữa, cá nhân con người tự do đi tìm hạnh phúc theo sở thích, mặc dầu tự do ấy vẫn lên những lo sợ, hối hả, ê chề. Tuổi thanh niên của Hồ Xuân Hương phải sống hoàn toàn trong xã hội suy đọa ấy. Lòng khát sống, thèm hạnh phúc ở người đàn bà phiêu lưu đó, kết tinh lại thành một ham muốn hạnh phúc lứa đôi sôi nổi. Đời Hồ Xuân Hương chỉ là một sự tìm chồng. Lẽ dĩ nhiên, trong sự kết tinh ấy, tính chất đặc biệt của cơ thể nàng, của di truyền cũng có tham dự một phần khá lớn. Trong một thời đại mà phong kiến suy đồi như thế thì người đàn bà sống một cuộc đời như thế làm sao tránh được ảnh hưởng của hoàn cảnh về phương diện phát triển tình cảm. Cái hình ảnh một thiếu nữ dâm đảng, xuân tình sớm động chạy theo mộng ước lứa đôi tràn trụa những nét nhục dục, hưởng khoái lạc xác thịt đến đã đời, rồi chấn chường, rên xiết, ai oán vì bất mãn – tôi muốn nói đến cô Kiều của Nguyễn Du – hình ảnh đó cũng được cấu tạo trong thực tế của thời Xuân Hương. Nó đã phần nào phản ánh một cái có thực trong xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII.
- Tâm hồn phóng đãng, tính nết lăng tằng, đời sống lung tung của Xuân Hương đã ngẹt thở trong trạng thái xã hội phong kiến khôi phục ấy. Trong thơ bà thường có những bài buồn bã ủ ê, thương thân, trách đời, tiếc xuân, nhớ mộng ( Oán hận trông ra khắp mọi chòm), đó là dấu vết của thời kỳ này. Nhưng Hồ Xuân Hương không phải là một tâm hồn đành chịu sự đè nén của xã hội. Nàng đã vùng dậy chống lại. Những bài thơ chứa những ý tưởng làm rợn tóc gáy các nhà Nho “thị thập tứ hiếu” (không có nhưng mà có mới ngoan), là sự phát hiện của sức sống chống đối cực đoan ấy.
- Thơ Hồ Xuân Hương là một chuỗi tiếng ấm ức, oán hận, nguyền rủa của một con người giàu sức sống bị kìm hãm, yếu nhưng không chịu thua, ngã vẫn không chịu đầu hàng kỷ luật phong kiến. Thơ Xuân Hương là sự đòi quyền sống của con người trong một chế độ áp bức con người, giày xéo con người. Hồ Xuân Hương là hiện thân của sự đòi quyền sống- nhất là quyền hưởng tình yêu và nhục dục. Những con người sung sức ấy là kẻ thù của lễ giáo phong kiến. Hiện tượng Hồ Xuân Hương về phương diện tâm lý là cái mầm hủy thể rất sâu sắc cái ý thức chống phong kiến ở địa hạt tình cảm và sinh lý của bình dân Việt Nam, của những tầng lớp nghèo khổ bị áp bức trong xã hội xưa.
- Có thể thấy Hồ Xuân Hương không phải là một phụ nữ bình thường của thời phong kiến mà bà đã có một cuộc sống đầy sóng gió.
Sự nghiệp sáng tác và những đánh giá về thơ Hồ Xuân Hương:
Sự nghiệp sáng tác:
- Các tác phẩm của bà đã bị mất nhiều, đến nay còn lưu truyền chủ yếu là những bài thơ chữ Nôm truyền miệng.
- Lưu Hương Kí: là tập thơ có nội dung tình yêu gia đình, đất nước, nó không thể hiện rõ cá tính mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương, cho nên, việc nghiên cứu giá trị thơ Hồ Xuân Hương chủ yếu được thực hiện trên những bài thơ Nôm truyền tụng của bà. Giáo trình văn học của Đại học Cần Thơ nhận định:
- Cách tả cảnh, tả tình, cách dùng từ… trong thơ Nôm của bà có một không hai, vô cùng sống động và đặc sắc. Xuân Diệu đánh giá thơ Hồ Xuân Hương là “tót vời của nguồn thơ nôm na bình dân”.
- Xuân Hương là một nữ sĩ có thiên tài và giàu tình cảm, nhưng “vì số phận hẩm hiu, thân thế long đong, nên trong thơ của bà hoặc có ý lẳng lơ, hoặc có giọng mỉa mai, nhưng bài nào cũng chứa chan tình tự”.
- Thơ Xuân Hương cũng rắc rối, phức tạp như chính cuộc đời bà. Số bài thơ còn lại cho đến nay chủ yếu nhờ vào sự lưu truyền, bảo vệ của nhân dân nên có nhiều dị bản.
- Xuân Hương thi tập là tập thơ khá nổi tiếng của Hồ Xuân Hương, dù rằng đây là tập thơ Nôm do giáo sư Nguyễn Lộc sưu tầm, tập hợp và biên soạn lại với tính chính xác, nhất quán không phải là tuyệt đối nhưng so với các bản khác thì có thể nói đây là tuyển tập tương đối đầy đủ, khách quan và khoa học nhấXuân Hương thi tập nói chung là một tập thơ Nôm luật Đường. Bà Huyện Thanh Quan cũng chỉ làm thơ luật Đường. Về sau Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương … đã làm rất nhiều thơ Nôm luật Đường. Dòng thơ luật này đã tạo thành một thể loại lớn mạnh. Tuy nhiên thì so trước nhìn sau, mọi người đều thừa nhận rằng thơ Hồ Xuân Hương là rực rỡ nhất vì hình thức thơ đẹp hơn, dân tộc hơn và đại chúng hơn cả. Xuân Diệu đã nêu nhận xét rất đúng và rất hay “Xuân Hương chỉ chuyên dùng thể thơ thất ngôn luật Đường thế mà không phút nào ta nghĩ rằng đó là một điệu thơ nhập nội, thơ Xuân Hương cứ nôm na, bình dân, tự nhiên, lời cứ trong veo không gợn, đọc cứ thoải mái dễ thuộc, những câu đối nhau thì cân chỉnh già giặn đến ai cũng phải sợ mà vẫn như lời nói thường”
- Tập thơ gồm 40 bài, số lượng bài tuy không nhiều nhưn.g nội dung của tập thơ khá phong phú. Mỗi vần thơ có thể nói là một phần tâm hồn, con người của tác giả. Nội dung thơ Xuân Hương tuy không phải là tiếng nói đại diện của cả một giai đoạn nhưng cũng đã chứa đựng được những giá trị tư tưởng sâu sắc.
- Có thế nói “Sự nghiệp của Hồ Xuân Hương là ngọn hải đăng” như lời đề tựa thứ hai của tuyển tập Hồ Xuân Hươngbằng tiếng Pháp.
- Hồ Xuân Hương với tài thơ độc đáo đã trở thành một “trung tâm” thu hút biết bao nhiêu thế hệ nhà nghiên cứu và các độc giả yêu quý Xuân Hương cũng như thơ bà vào cuộc kiếm tìm, vì vậy mà thân thế và thi tài của bà liên tục được định giá lại. Nghiên cứu về con người và thơ Hồ Xuân Hương đã như một vấn đề thời sự văn học. Thơ Nôm Hồ Xuân Hương đã được giới nghiên cứu tiếp nhận ở nhiều góc độ như phê bình văn học, tiếp nhận văn học, nhiều khuynh hướng như phân tâm học, văn bản học, xã hội học, văn hóa học… Qua các công trình nghiên cứu về Hồ Xuân Hương, từ trước đến nay, chúng ta nhận thấy, việc đánh giá về thơ Hồ Xuân Hương đã diễn ra rất phức tạp. Riêng việc tiếp cận thơ Nôm Hồ Xuân Hương dưới góc độ giới tính thì chưa thật nhiều, các ý kiến chủ yếu xoay quanh vấn đề dâm, tục trong thơ bà.
- Trước hết phải kể đến Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu, đầu những năm hai mươi của thế kỉ XX, phê bình “Thơ Hồ Xuân Hương thật tinh quái, những câu thơ hay đọc lên đến ghê người. Người ta thường có câu: “Thi trung hữu hoạ”. Nghĩa là trong thơ có vẽ. Nhưng thơ Hồ Xuân Hương thì lại là: “Thi trung hữu quỷ”. Nghĩa là trong thơ có ma! Song mà nhận ra thời tục”. Như thế, Tản Đà đã khẳng định có yếu tố “tục” trong thơ Xuân Hương.
- Đến Trương Tửu thấy trong thơ Hồ Xuân Hương chỉ có thuần tục và dâm, ngoài ra không có gì khác. Trương Tửu còn gọi Xuân Hương là “thiên tài hiếu dâm “. Trương Tửu cho rằng trong thơ Hồ Xuân Hương có những “khát vọng tiềm thức” và những “ám ảnh”, bệnh thần kinh vì dục tình không được thoả mãn.
- Sau đó, Nguyễn Văn Hanh đã phát triển quan điểm của Trương Tửu dựa trên quan điểm của học thuyết phân tâm học (Freud). Trong tác phẩm Hồ Xuân Hương, tác phẩm, thân thế và văn tài, Nguyễn Văn Hanh viết: “Dục tình ngày càng tăng, càng nén lại càng bồng bột. Ngày qua tháng qua, sức ép tình dục càng tăng vì sự cần kia càng khẩn cấp. Kết quả: Hồ Xuân Hương khủng hoảng tình dục. Khủng hoảng nặng sẽ kết bệnh thần kinh”. Nguyễn Văn Hanh đã thông qua thơ ca để tái hiện lại cuộc đời, con người Hồ Xuân Hương, từ đó ông rút ra kết luận là Hồ Xuân Hương bị khủng hoảng tình dục. Nhà nghiên cứu này đã đi sâu, lí giải cội nguồn hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương từ bên trong, qua sự uẩn ức tâm lý.
- Tiếp cận thơ Nôm Hồ Xuân Hương theo hướng này còn có Văn Tân, trong bài Ý nghĩa và giá trị thơ Hồ Xuân Hương trích quyển: Hồ Xuân Hương với các giới phụ nữ, văn học và giáo dục, Văn Tân có đặt vấn đề tục dâm, nhưng khi phân tích, Văn Tân bị lôi cuốn theo cái ám ảnh của vấn đề thiếu thốn cái sinh lí: “Ở Xuân Hương, dâm và tục gặp một khu đất màu mỡ thuận tiện cho sự phát triển: sự khủng hoảng tính dục luôn luôn sôi sục và trầm trọng của con người rất mực đa tình là Xuân Hương. Dâm và tục đã ăn sâu vào ý thức tư tưởng Xuân Hương, chi phối hầu hết thi phẩm của Xuân Hương.
- Cùng quan niệm trên phải kể đến Lê Hoài Nam viết về phần Hồ Xuân Hương trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam, tập 3, thời kì I (Gs Lê Trí Viễn chủ biên). Với vấn đề tục dâm ông cho rằng muốn nhận định một tác phẩm nghệ thuật dâm hay không dâm, trước hết phải căn cứ vào thái độ, mục đích của tác giả khi sáng tạo ra hình tượng nghệ thuật, phải tìm bắt cho được cái nỗi niềm kín, cái rung động sâu xa mà người nghệ sĩ muốn thổ lộ với người đời. Ông cho rằng những đòi hỏi hạnh phúc ái ân trong thơ Hồ Xuân Hương là chính đáng khi đặt nó trong hoàn cảnh xã hội nhất định, trong những điều kiện nhất định của một cá nhân. Điều đáng chú ý là trong công trình này, ông là một trong những người đầu tiên nhấn mạnh rằng thơ Hồ Xuân Hương thể hiện một khía cạnh đầy cá tính, đó là ý thức về giá trị của mình.
- Đến năm 1961, Trần Thanh Mại gợi lên trong: “Thử bàn lại vấn đề tục và dâm trong thơ Hồ Xuân Hương” khiến cho văn đàn bàn về thơ Hồ Xuân Hương lại có dịp trở nên sôi động. Từ đó thêm nhiều ý kiến về góc nhìn này trong nội dung thơ Nôm Hồ Xuân Hương.
- Tiêu biểu cho các tiếp cận thơ Nôm Hồ Xuân Hương ở khía cạnh giới tính mà dưới tên gọi vấn đề dâm tục là Nguyễn Lộc. Trong bài Lời giới thiệu in trong tập Thơ Nôm Hồ Xuân Hương (1982). Hồ Xuân Hương trong bài viết này của Nguyễn Lộc như là hình tượng đại diện cho toàn thể người phụ nữ bị áp bức trong xã hội phong kiến Việt Nam. Vì vậy, đối với ông, những nội dung trữ tình trong thơ Hồ Xuân Hương cũng phản ánh nội dung tình cảm của những người phụ nữ bị áp bức. Tuy nhiên, Nguyễn Lộc không xem vấn đề nghĩa ngầm, dâm và tục là phương tiện chính đả kích sự dâm đãng. Mặt khác, ông luôn đặt hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương trong tiến trình lịch sử văn học, bên cạnh trào lưu nhân văn chủ nghĩa trong văn học thế kỉ XVIII -XIX. Điều này soi sáng được mối liên hệ giữa thơ Hồ Xuân Hương và các sáng tác khác, góp phần cho thấy hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương không phải là hiện tượng lạ lẫm, bất thường.
- Về sau có công trình nghiên cứu thơ Nôm Hồ Xuân Hương theo phương pháp phê bình văn hoá cũng có đề cập đến vấn đề giới tính là Hồ Xuân Hưong – Hoài niệm phồn thực của Đỗ Lai Thuý. Ông vận dụng hai khái niệm chủ chốt của nhân học văn hoá là “biểu tượng phồn thực” – âm vật và dương vật, “vô thức tập thể” để soi chiếu và giải mã hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương. Theo ông “tín ngưỡng phồn thực” là cơ sở chính tạo nên hiện tượng thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Ở công trình này, Đỗ Lai Thuý cũng đã lý giải hiện tượng tục dâm trong thơ Hồ Xuân Hương bắt nguồn từ điểm nhìn văn hoá. Ý kiến này giải thích phần nào sức hấp dẫn của thơ Hồ Xuân Hương trong đời sống dân gian.
- Gần đây nhất, đầu năm 2008, tác phẩm Sức hấp dẫn của thơ Nôm Hồ Xuân Hương của PGS – TS Lê Thu Yến đã đem đến cho người tiếp nhận văn học những khám phá mới mẻ về nội dung nghệ thuật của thơ Nôm Hồ Xuân Hương ở một góc nhìn trần thế của con người. Bằng một giọng văn hóm hỉnh và giàu trí tuệ của một người yêu thơ Nôm Hồ Xuân Hương, tác giả của công trình nghiên cứu trên cũng đưa ra vấn đề giới tính là một điểm nhấn để lí giải cho sức hấp dẫn của thơ Nôm Hồ Xuân Hương thu hút bao thế hệ. Đây là một công trình có giá trị đối với những người yêu thơ Hồ Xuân Hương nói riêng và những người yêu văn chương nói chung.
- Cùng với các bài viết đã được công bố rộng rãi trên sách báo mà những người yêu mến Hồ Xuân Hương biết tới, còn một số lượng khá lớn các bài viết được đưa lên mạng internet rải rác trong khoảng hơn chục năm gần đây. Thế Uyên (trong Tình dục trong ca dao và thơ Hồ Xuân Hương – nguồn Talawas năm 2005) khẳng định “nhà văn nữ mà bàn tới tình dục trong tác phẩm thành văn của mình, tính từ lúc Ngô Quyền lập quốc thế kỷ thứ 10 cho đến thế kỷ 19, vẫn chỉ có nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương”.
- Tác giả Trịnh Thanh Thủy có bài Sex – dưới mắt nhìn của người viết nữ Việt Nam trên trang Evan cho rằng: “Trong kho tàng văn học Việt Nam thời xưa, người viết nữ đề cập đến tình dục nhiều nhất là nữ sĩ Hồ Xuân Hương”.
- Trong đọc lại Thiếu nữ ngủ ngày của Xuân Hương của tác giả Mai Văn Hoan đăng trên trang Văn nghệ quân đội cuối tuần ngày 18 – 04 – 2007 có đoạn: “Ở bức tranh “Thiếu nữ ngủ ngày”, Hồ Xuân Hương đã bổ sung thêm hai “điểm nhấn” hết sức quan trọng, càng tôn thêm vẻ đẹp tuyệt mỹ của thân thể người phụ nữ. Vì thiếu nữ “nằm chơi quá giấc nồng” giữa ban ngày ban mặt, lại vô ý để cho chiếc yếm đào “trễ xuống dưới nương long” nên mới lộ ra: đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm/Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông”! Đúng là một vẻ đẹp thần tiên. Chỉ cảnh tiên mới có Bồng Đảo, mới có Đào Nguyên. Gò Bồng Đảo đã đẹp rồi “sương còn ngậm” lại càng đẹp hơn nữa. Lạch Đào Nguyên đã hấp dẫn rồi “suối chửa thông” lại càng hấp dẫn hơn. Tất cả hãy còn trinh nguyên! Chỉ có Hồ Xuân Hương mới bạo dạn đặc tả cái “lạch Đào Nguyên” hết sức ấn tượng và tuyệt vời đến như vậy… nhằm tôn vinh cái đẹp trời cho của người phụ nữ” . Một phần nhiều của sức hấp dẫn ấy chính là vấn đề giới tính mà bà đề cập. Có lẽ bất cứ ai khi đến với thơ Hồ Xuân Hương đều cảm thấy và không thể phủ nhận vấn đề giới tính trong thơ bà. Hồ Xuân Hương nói về vấn đề giới tính mà không dùng sơn son thiếp vàng, lụa là gấm vóc của những điển cố, điển tích hay những hình ảnh tượng trưng ước lệ vốn thường gặp trong thơ văn cổ. Trước hết, đó là điểm nhìn về vấn đề giới tính trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương.
- Điểm nhìn giới tính trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương
Quan niệm của người xưa, đất trời đặt trong mối quan hệ âm – dương. Mọi sự vật hiện tượng tồn tại ở vòng trời đất này đều cần sự hài hòa giữa hai mặt âm, dương, tức là phải có cặp có đôi – như một quy luật bất di bất dịch. Sự tồn tại nhân loại này không nằm ngoài quy luật ấy. Như thế người phụ nữ và đàn ông vốn tồn tại cạnh nhau, vị thế của họ đáng lẽ phải ngang nhau. Vì dù là giới nào, đàn ông hay đàn bà, trai hay gái thì cũng không nằm ngoài những quy luật tất yếu của cuộc sống; do đó phải có sự bình đẳng giữa nam và nữ. Nhưng thực tế thì trong xã hội phong kiến, người đàn bà không được xác lập bất cứ một vị thế nào mà họ còn phải chịu đựng trăm điều cay đắng. Phải chăng vì bất bình trước điều này mà người đàn bà ngông ngạo, bản lĩnh Xuân Hương mới lên tiếng.
“Đàn ông đi biển có đôi, Đàn bà đi biển mồ côi một mình”.
Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho trào lưu nhân đạo chủ nghĩa của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, trước hết là vì sáng tác của bà đã nêu bật lên được những vấn đề riêng tư của con người cá nhân, những nỗi bất công mà người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải chịu đựng và tin tưởng đấu tranh để bênh vực quyền lợi của họ. Xuân Hương không nêu lên tất cả những nỗi khổ của người phụ nữ mà chỉ nêu lên những nỗi khổ riêng, có tính chất giới tính của họ như kiếp chồng chung, goá bụa, chửa hoang, người đàn bà với gánh nặng chồng con…Thơ Xuân Hương mang đậm sắc thái giới tính, bà thông cảm, chia sẻ với nỗi khổ ấy nhưng không thở than, rên rỉ mà động viên, an ủi họ dũng cảm chống lại những định kiến của xã hội phong kiến khắc nghiệt, để ngẩng cao đầu làm người. Nữ giới trong thơ của Hồ Xuân Hương là những cô gái trẻ trung yêu đời, những tố nữ duyên dáng, là cô gái mời trầu chân tình đến cảm động, là thiếu nữ rộn ràng mở rộng lòng mình “đón xuân vào”, là những người đàn bà với tấm lòng son sắt, thuỷ chung dù gặp bao khó khăn, vất vả. Bà ý thức rõ giá trị, vai trò, khả năng của người phụ nữ không thua kém đàn ông. Bên cạnh đó, Xuân Hương còn đề cao những cái mà người đời cho là hèn mọn, xấu xa đáng che giấu: bà ca ngợi vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ, nhất là những bộ phận gợi dục, đồng thời bà không phủ nhận thú vui xác thịt – thú vui trần thế của con người mà còn khẳng định chúng với những giá trị đích thực. Sự thể hiện đó của Hồ Xuân Hương như sự phản ứng lại với thói đạo đức giả, khinh thường thân xác, coi rẻ phụ nữ của Khổng giáo.
“Quản bao miệng thế lời chênh lệch Không có, nhưng mà có mới ngoan”
Tuy không quyết liệt, ráo riết, rầm rộ như các phong trào “cổ vũ đấu tranh” cho phụ nữ đòi bình đẳng với nam giới ở các nước phương Tây, Hồ Xuân Hương của Việt Nam cũng đã biết dùng thơ để chống lại xã hội mà mọi đặc quyền dành cho nam giới. Trong đó, một điều kì lạ là ở một đất nước phương Đông bé nhỏ này, một người đàn bà – Xuân Hương đã dám đối đầu với cả một xã hội phong kiến với những nhà nho cứng nhắc lúc nào cũng tuân theo: tam cương, ngũ thường, tam tòng tứ đức như một đức tin. Tuy nhiên, điểm nhìn về giới tính của Hồ Xuân Hương không giống với những người đi trước và cả những người cùng thời với bà – bà có cái nhìn rất riêng, rất lạ. Cái nhìn ấy bắt nguồn từ thời đại nhà thơ sống và từ chính cuộc đời của mình – cuộc đời của một con người chịu nhiều sự trớ trêu, gãy đoạn, long đong, lận đận trong tình yêu, hạnh phúc. Điểm nhìn giới tính của Xuân Hương là điểm nhìn của nữ giới. Điểm nhìn của người phụ nữ ấy về vấn đề giới tính chỉ toàn những gì quen thuộc, toàn những điều gần gụi, không to tát. Đó là cuộc sống đời thường với những khát khao tình yêu, hạnh phúc trần thế. Hơn nữa, dù có táo bạo, mạnh mẽ, gan góc đi chăng nữa thì thực chất Hồ Xuân Hương cũng chỉ là một người đàn bà và bản thân bà cũng là một nạn nhân điển hình của xã hội phong kiến nhiều bất công và tàn nhẫn với nữ giới.Vì vậy, bà luôn hướng về người phụ nữ như một nạn nhân cần phải bênh vực, bảo vệ, nâng niu những gì đẹp nhất nơi họ.
Dù chế độ phong kiến ở phương Đông hay phương Tây thì vai trò của người phụ nữ luôn bị coi thường. Nho giáo có những quan niệm hà khắc cùng với quan niệm tôn ti, lễ nghĩa của xã hội Việt Nam đã vô tình hạ thấp vai trò của người phụ nữ. Họ trở thành công cụ, nô lệ để thỏa mãn cơn tình dục của nam giới, sau đó lại bị khinh rẻ. Xuân Hương đã đề cao vai trò to lớn không thể thiếu được của người phụ nữ trong chức năng thiêng liêng, vai trò sinh ra sự sống.Việc duy trì nòi giống không chỉ là trách nhiệm cao cả của con người mà đó còn là hành vi văn hóa, nhân văn trong đó người phụ nữ giữ vai trò đặc biệt. Họ được tạo hóa ban cho sức mạnh, lòng tin và cả đức hy sinh để thực hiện thiên chức ấy. Vì một sự thật không thể chối cãi là việc sinh nở ở giới nữ là một việc nặng nề, nguy hiểm và luôn cần sự cảm thông của người khác giới. Người Việt ta có câu ca:
“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”
(Không chồng mà chửa)
Thì ra chính “miệng thế” – miệng lưỡi cay độc của thế gian bị nhuộm đen bởi tư tưởng phong kiến đã trở thành những kẻ lắm lời, đơm đặt. Trước điều này, Xuân Hương đã dùng cách nói phủ định để khẳng định sự biện hộ, bênh vực cho giới nữ một cách mạnh mẽ và kiên cường “Không có, nhưng mà có mới ngoan”.
“Đương cơn lửa tắt cơm sôi, Lợn kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem”
Điểm nhìn giới tính trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương còn là việc chống lại những cấm đoán khắt khe của xã hội phong kiến đối với người phụ nữ trong quan niệm về tình yêu, hạnh phúc, từ đó bảo vệ và bênh vực cho họ. Có lẽ đây là nữ sĩ đầu tiên trong văn học – một người phụ nữ tài hoa và dũng cảm đã lên tiếng trên giấy trắng mực đen, nói rõ ràng, mạch lạc, đấu tranh cho quyền lợi của giới mình, bà đã lên tiếng chửi kiếp lấy chồng chung:
“Hỡi chị em ơi có biết không? Một bên con khóc một bên chồng Bố cu lổm ngổm bò trên bụng Thằng bé hu hơ khóc dưới hông”.
(Lấy chồng chung)
Chế độ năm thê bẩy thiếp thời phong kiến là một ví dụ tiêu biểu cho sự áp bức, bất công và bạo tàn dành cho số phận của những người phụ nữ làm lẽ (mà kể cả làm chính – một vợ một chồng thời đó cũng chẳng khá gì hơn). Chế độ ấy chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu tình dục cho nam giới, mà không quan tâm đến tâm trạng cũng như nhu cầu của người phụ nữ – một chủ thể cũng cần được tôn trọng trong thú vui vô cùng của tạo hoá. Xin được lạm bàn khía cạnh này đôi chút. Theo những nghiên cứu của các chuyên gia về giới tính châu Âu, “người đàn bà thật sự đạt được sự khoái lạc khi có kích thích cực độ” .Trong khi đàn ông nếu thích thì cứ việc lấy thêm thiếp cho dù vợ vẫn sống sờ sờ ra đấy.
Văn học thế kỉ XVIII – XIX thể hiện rất phong phú những biến cố của xã hội, hiện thực xã hội đen tối, những cảnh đời bất hạnh… Đặc biệt hình ảnh người phụ nữ được các nghệ sĩ quan tâm. Họ trở thành nhân vật trung tâm của các tác phẩm văn học. Xuân Hương cũng vậy, bà đã trở thành nhà thơ của phụ nữ, người biện hộ và người gửi gắm nỗi niềm của chị em phụ nữ. Trong khi xã hội phong kiến chủ trương tiêu diệt cá tính, thủ tiêu mọi nhu cầu cá nhân của con người để tôn thờ giai cấp thống trị. Xuân Hương đã đi ngược với xã hội ấy để cất tiếng nói đầy cá tính của mình. Đó là tiếng nói mạnh mẽ của một người phụ nữ về chính giới mình – giới nữ với vẻ đẹp tâm hồn, tài năng và đặc biệt vẻ đẹp thân thể. Tiếng nói ấy chân thực, rõ ràng đầy tự hào, đầy bản lĩnh. Có lẽ tiếng nói, vần thơ của Xuân Hương cũng đã góp phần nhằm xác lập hình ảnh người phụ nữ, vị trí của người phụ nữ Việt Nam trong tiến trình đi lên của lịch sử dân tộc.
“Giếng tốt thanh thơi giếng lạ lùng Cầu trắng phau phau đôi ván ghép, Nước trong leo lẻo một dòng thông. . Bởi thế từ ngày xưa trong huyền thoại đã có chuyện thi thố giữa các vị thần sắc đẹp để tìm ra người nào đẹp nhất, mới xảy ra cớ sự Cuộc chiến thành Troa. Từ đây ta mới thấy, trong cuộc đời người tài và người đẹp đều khan hiếm như nhau, và cái tài ấy, sắc ấy đều đáng được trân trọng, ngợi ca. Vậy, tại sao con người lại không trân trọng vẻ đẹp thân thể của con người mà lại e dè, xa lánh nó như nguồn gốc của tội lỗi. Biết bao giờ, con người mới đối xử công bằng với vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ, mới có thái độ như cụ Nguyễn Du “Thiện căn ở tại lòng ta” với vấn đề nhạy cảm này. Hồ Xuân Hương đã viết những vần thơ thể hiện sự tự hào đó một cách không giấu diếm. Dường như khi ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ, Xuân Hương luôn tạo ra nét đẹp mới mẻ, sống động đặt trong thế nhân vật của mình là thanh nữ. Bà không ngần ngại phô trương vẻ đẹp của những thân thể ấy như một vũ khí độc chiêu:
” Thân em vừa trắng lại vừa tròn ” (Bánh trôi nước)
(Giếng nước)
“Mùa hè hây hẩy gió nồm đông, Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng. Lược trúc biếng cài trên mái tóc, Yếm đào trễ xuống dưới nương long. Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm, Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông . Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt, Đi thì cũng dở, ở không xong”.
” Hai hàng chân ngọc duỗi song song ” (Đánh đu)
Xuân Hương dụng công miêu tả bánh trôi nước, giếng nước, đánh đu, dệt cửi, cái quạt, quả mít… nhưng cơ thể con người cứ lộ dần sau câu chữ. Hàng loạt tính từ chỉ sự trong trắng của người thiếu nữ, nào là trắng, là tròn, thanh thơi (hấp dẫn, cuốn hút), thanh tân (trong trắng, trinh nguyên), lại còn phau phau đôi ván ghép, nước trong leo lẻo… Cái giếng thơi ấy chẳng phải là một cô gái thanh tân chưa ai dám thả “nạ dòng dòng” ư?
Nude (tiếng Anh) – dịch ra tiếng Việt có nghĩa là khỏa thân, thường được coi như từ chuyên dụng cho lĩnh vực nghệ thuật, khác hoàn toàn với Nake là trần trụi, thiên về dung tục đời thường. Khỏa thân trong nhiều nền văn hóa, đầu tiên là phục vụ tôn giáo, tín ngưỡng, để ca ngợi thần linh, để cầu sự phồn thực… như người viết đã trình bày ở các phần trên. Nhưng khi chủ nghĩa nhân đạo ra đời, con người trở thành đối tượng trung tâm của các hình thức nghệ thuật, thì khỏa thân là để ca ngợi chính con người. Xuân Hương đề cập đến hình thể con người để tôn vinh chính con người trong cuộc sống, đó là những cơ thể của những cô gái lao động lành mạnh, khỏe khoắn, đầy sức sống, những cô gái mang vẻ đẹp thanh tân, quyến rũ. Hồ Xuân Hương miêu tả hình thể người phụ nữ không thua kém gì con người trong điêu khắc, hội họa, rất tự nhiên, hài hòa, sống động. Đấy mới là vẻ đẹp thực sự của con người. Thiếu nữ ngủ ngày là một bức truyền thần khỏa thân bằng ngôn ngữ:
Bài thơ tả cơ thể xuân thì của một cô gái bình dân, một cơ thể tràn đầy sức sống, thanh tân buộc người ta phải chiêm ngưỡng trong sự trân trọng và thán phục trước tài trác tuyệt của hóa công. Đấy chẳng phải là “tòa thiên nhiên” “dày dày đúc sẵn” đó sao? Một cô gái với giấc ngủ trưa lành mạnh, ở đấy, Xuân Hương công khai đem vẻ đẹp thanh tân ấy của người con gái bày ra giữa thanh thiên bạch nhật, khen xinh và không ngại dụng công miêu tả những điểm gợi cảm nhất của giới nữ: “đôi gò Bồng Đảo”, “một lạch Đào Nguyên”. Tất cả là tiên cảnh, Hồ Xuân Hương đã dùng hai hình ảnh “gò Bồng Đảo” và “lạch Đào Nguyên” để nâng vẻ đẹp thân xác của người phụ nữ đến mức thần tiên. Nhưng cái đáng quý là “gò Bồng Đảo” lại “sương còn ngậm” và cái “lạch Đào Nguyên” kia thì vẫn ở thế trinh nguyên “suối chửa thông”. Vẻ đẹp của cô gái ấy còn đang e ấp, giữ gìn nên càng cao quí. Thiếu nữ ngủ ngày là một bức tranh đầy sức gợi cảm. Thân thể cô thôn nữ khỏe khoắn, đầy sức sống được đúc tạc không phải bằng đường nét, màu sắc, hình khối của điêu khắc hay hội họa mà bằng một thứ ngôn ngữ sang trọng của văn chương. Miêu tả hình thể đẹp của cô thôn nữ trước là để ca ngợi vẻ đẹp trời phú của con người lao động, sau như là một phản ứng của Hồ Xuân Hương trước thói đạo đức giả của người đời. Con người ai cũng có thất tình lục dục, mấy ai có thể cưỡng lại sức mạnh của tự nhiên, nhất là cưỡng lại món quà hấp dẫn nhất của tạo hóa là người phụ nữ đẹp. Đại thi hào văn học Anh William Shakespeare từng phát biểu: “sắc đẹp làm động lòng trộm cướp hơn vàng” , cơ thể con người trở thành một nhân vật trong thơ của nữ sĩ. Và dĩ nhiên hình thể con người đã trở thành nhân vật chính, khai thác bao nhiêu vẫn chưa đủ, vẫn còn đầy sức quyến rũ. Nhưng điều đáng trân trọng là Xuân Hương lấy cơ thể làm đối tượng miêu tả không nhằm mục đích gợi những điều xấu xa mà chỉ để biểu hiện thái độ nhân văn, nhân đạo sâu sắc và táo bạo, cũng như đưa đến những bước đi mạnh dạn trước thời đại của bà. Với tư tưởng này, có thể coi Hồ Xuân Hương là nhà thơ Phục Hưng của văn học Việt Nam thời trung đại.
Người phụ nữ đẹp không chỉ mang giá trị tự thân họ mà còn làm đẹp cho cuộc sống của chúng ta, làm cuộc đời chúng ta vui hơn. Chúng ta cũng không thể chối bỏ rằng họ là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca, nhạc họa. Điều đáng quí ở nữ sĩ họ Hồ là bà đã đem người phụ nữ ngoài đời – người phụ nữ bình dân Việt Nam chạm khắc vẻ đẹp và đức hạnh của họ vào vũ trụ to lớn; họ không còn bé nhỏ nữa, trong phút chốc bỗng mang sức mạnh vĩ đại khi đem ban phát cái đẹp và sự sống, nguồn vui cho hành tinh này. Đáng ca ngợi và tự hào lắm chứ! Và ngay cả khi bà bỡn họ theo cách của bà thì hình ảnh người phụ nữ trong thơ Nôm của Xuân Hương luôn luôn là hình ảnh đẹp, khoẻ khoắn, ngời ngời sức xuân. Họ hiện thân của Thiếu nữ ngủ ngày vô tình để lộ cái trắng trong cho kẻ phàm phu tục tử bối rối, là Tranh tố nữ đẹp cho người ta ngắm đắm say vừa tiếc nuối vì thiếu cái phần “tất yếu của sự sống”, là múi mít thơm ngon sau vỏ bọc xù xì… Chính vẻ đẹp của những “đôi gò Bồng Đảo, “một lạch Đào Nguyên”, những “hồng hồng má phấn”, những “cửa son đỏ loét”… là khởi nguồn, là điều làm nên niềm hạnh phúc, hoan lạc cho trần gian mà những bậc hiền nhân quân tử, vua chúa dù muốn chối bỏ nhưng mỏi ngối, chồn chân vẫn còn ham. Giới nữ tự hào về những điều mình hiến dâng cho cuộc đời một cách tự nguyện, vì vẻ đẹp của người phụ nữ là cội nguồn của niềm hoan lạc, của sự thăng hoa. “Cái đẹp là dấu hiệu của Đấng Toàn Năng dùng để cổ vũ đức hạnh” (Ralphalo Emerson) . Tất nhiên không có thân xác nào chỉ là thân xác, thân xác phải chứa đựng hành động, tư tưởng, giống như mỗi hình thức phải mang một nội dung nhất định. Những hình thể con người trong thơ của Xuân Hương sống động mà không siêu thoát cũng không quá dung tục. Nhà thơ lấy chất liệu ấy từ cuộc đời, từ con người với số phận thật, chưng cất nó, nhưng không đem làm của riêng cho mình, không sơn son thiếp vàng cho nó, cũng không ném nó vào thế giới siêu hình, bà đem nó đặt một cách trân trọng, nâng niu giữa cuộc đời, trả nó về với nơi nó sinh ra nhưng mang một vẻ đẹp khác hẳn – vẻ đẹp hoàn mỹ. Đây chẳng phải là thứ tuyên ngôn nghệ thuật mà lớp con cháu bà sau này mới thấm thía nhận ra sao? Văn chương không thể thoát ly thực tại đời sống và thân xác là thực tại đầu tiên của kinh nghiệm làm người. Ở phương diện này, ta thấy bản lĩnh của Xuân Hương đã dũng cảm dấn thân vào một lĩnh vực thuộc hiện thực “gai góc” nhất của văn chương nhưng kì lạ thay đó lại chính là địa giới thân thiết nhất với cuộc sống con người.
“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn, Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Sự tự hào về giới của Hồ Xuân Hương còn thể hiện ở ca ngợi phẩm chất cao quý của người phụ nữ. Những người phụ nữ như bà sống trong xã hội phong kiến chịu nhiều nỗi thua thiệt, nhưng không lùi bước. Trong mọi hoàn cảnh họ đều ý thức rõ về chính mình và tìm cách vươn lên với tinh thần ham sống, yêu đời đến cảm động, để khẳng định mình, để tồn tại; tồn tại để khát khao; khát khao tận hưởng hạnh phúc (dù cuộc đời đáp trả phía họ toàn những điều cay đắng). Đó là hình ảnh người phụ nữ đầy nghị lực vượt qua niềm đau riêng, vượt qua bất hạnh như lỡ thì, làm lẽ, góa chồng… Xuân Hương không muốn nghe tiếng khóc nỉ non của người phụ nữ. Bà cũng không muốn giới mình đành lòng cam chịu thân phận lệ thuộc, bị coi thường, bị ném đi khi kẻ khác giới đã cảm thấy chán chê. Xuân Hương khuyên người đàn bà có chồng vừa mất “Nín đi kẻo thẹn với non sông”, bà không muốn con người ấy khóc than mãi làm gì, cũng không cần phải theo cái đạo “tam tòng” ấy làm gì, hãy để sức mà còn bước tiếp… Xuân Hương cho người đọc tiếp cận với một cô gái không chồng mà chửa do cả nể trong tình yêu bị lỡ làng cũng là một cô gái nhân hậu, khoan dung “Mảnh tình một khối thiếp xin mang” và đồng thời là một người con gái mạnh mẽ, quyết liệt, dám thách thức với lề thói xã hội để giữ lại “khối tình” minh chứng cho tình yêu của mình.
Đó còn là những cô gái với phẩm chất trắng trong, trinh nguyên “Đôi lứa như in tờ giấy trắng” (Tranh tố nữ).
Phẩm chất để Xuân Hương tự hào về người phụ nữ còn là sự gan góc, sức chịu đựng của người phụ nữ trước nỗi đời cơ cực, để giữ gìn cái sắt son của người đàn bà, vẫn giữ tấm lòng son, đằm thắm, tha thiết dù bị bầm dập:
“Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”
(Bánh trôi nước)
Cuộc đời họ nhiều lúc chỉ như phận của “chiếc bách giữa dòng” bập bềnh trôi theo nước chảy “Nửa mạn phong ba luống bập bềnh”. Họ lắm khi cũng ngao ngán trước tuổi trẻ qua mau, cái già đang xồng xộc đến, trong khi nhìn lại cuộc đời mình không có cái gì là vẹn tròn, viên mãn cả, mà cái gì cũng “khuyết” nên mới “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại”, mới tủi phận, xót xa cho cái “duyên để mõm mòm”. Đau khổ thế, buồn tủi thế nhưng họ không để ngã quỵ, gắng gượng vượt qua, người phụ nữ trong thơ Xuân Hương đâu dễ bị khuất phục, dù số phận có nghiệt ngã, trớ trêu đến đâu nhưng họ vẫn cố gắng khẳng định mình “Thân này đâu đã chịu già tom?” Câu thơ như sự thách thức với thực tại phũ phàng đầy chua xót nhưng cũng vô cùng bản lĩnh, cứng cỏi…. Trong một xã hội rối ren, khi mà thân phận người phụ nữ bị rẻ rúng như xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, người phụ nữ vẫn giữ được tấm lòng son, kiên trinh, thủy chung của mình, cố gắng sống đẹp và có nghĩa thì thật đáng trân trọng biết bao. Cách thể hiện này cho thấy phong cách và bản lĩnh của Xuân Hương tạo ra sự vượt bậc và khác biệt giữa nữ sĩ và các tác giả khác về phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam trong văn học.
Thơ Nôm Hồ Xuân Hương còn thể hiện sự tự hào về người phụ nữ muốn làm nên một sự nghiệp anh hùng, không kém nam giới:
(Đề đền Sầm Nghi Đống)
Không phải Xuân Hương coi thường nam nhi mà “ghé mắt trông ngang” đền thờ Sầm Nghi Đống. Hành động ấy thể hiện thái độ của bà rất rõ ràng, một tên cướp nước bại trận như hắn thì có gì đáng để người ta kính trọng, thờ phụng. May cho hắn gặp người Việt Nam nhân từ còn cho hắn một chỗ để nương thân, còn có nơi để siêu thoát về kiếp khác. Xuân Hương không nói quá chút nào, thử nhìn vào lịch sử chống giặc của dân tộc thì thấy ngay. Người phụ nữ Việt Nam cũng có những con người tài năng, đã từng làm nên nghiệp lớn như Bà Trưng, Bà Triệu. Xuân Hương đã khẳng định tài năng và phẩm chất của giới nữ để thế giới phải nhìn lại địa vị của họ. Hơn một lần Xuân Hương đề cao phẩm chất cao quý của người phụ nữ. Họ có sức mạnh vượt qua gian khó, suy nghĩ và hành động của họ đôi khi được Xuân Hương nâng lên ngang tầm non sông, vũ trụ. Thân phận bất hạnh, số kiếp đau khổ của họ được hoá thân vào sông núi:
Tất cả những thu là với vén
” Trơ cái hồng nhan với nước non ” (Tự tình 2)
Xuân Hương đem “cái hồng nhan” so cùng “nước non”. Cảnh buồn nhưng không gợi sự thương cảm, nhờ cách nói cứng cỏi rất Xuân Hương, “cái hồng nhan” ấy trải lòng cùng nước non. Câu thơ Xuân Hương cứ khắc khoải một niềm khát khao giao cảm. Thơ bà nhắc nhiều đến ba chữ “với nước non” – Bánh trôi nước, Hỏi trăng, có khi biến thành “với non sông” – Dỗ người đàn bà khóc chồng, Đá Ông chồng Bà chồng có lẽ cũng vì một niềm khao khát, giao cảm ấy.
Ngược lại với tư tưởng coi khinh phụ nữ của giai cấp phong kiến, Xuân Hương đề cao giá trị của người phụ nữ. Thơ Xuân Hương như một thông điệp khẳng định nguồn sống của xã hội là người phụ nữ, họ là những người yêu chồng, chăm sóc và nuôi dạy con cái, vun vén gia đình:
(Cái nợ chồng con)
Thậm chí bà tự hào vì sự dâng hiến to lớn của người phụ nữ. Họ sinh ra để tiếp nối sự sống, để ban phát hạnh phúc và cái đẹp cho đời. Họ có khả năng làm cho bọn đàn ông từ hiền nhân quân tử đến vua chúa chết mê chết mệt. Chỉ một thế nằm ngủ “vô tư” của cô gái bình dân vào buổi trưa hè hây hẩy gió đã khiến chàng quân tử động lòng ong bướm “Đi thì cũng dở, ở không xong”, chỉ là một cái quạt vừa giúp “Mát mặt anh hùng khi tắt gió”, vừa “Che đầu quân tử lúc sa mưa”, hay cái vẻ “hồng hồng má phấn” thôi cũng khiến vua chúa, quan quân “Yêm đêm chưa phỉ lại yêu ngày”. Xem ra công dụng của “cái quạt” trong tay nữ giới là vô cùng và phải chăng đó cũng là điểm mạnh của giới nữ mà ít người nhận thấy.
Đó còn là người phụ nữ hiểu biết về giá trị của mình, ý thức về sự sống quý giá của giới mình, về tình yêu, hạnh phúc. Bà trách người thợ vẽ khéo vô tình “Còn thú vui kia sao chẳng vẽ?” (Tranh tố nữ). Nhìn đá bà chạnh lòng cảm thông cho con người (Đá ông chồng bà chồng)… Thơ Xuân Hương là tiếng lòng của Xuân Hương và cũng là tiếng lòng của biết bao người phụ nữ Việt Nam thời bấy giờ. Đó là tiếng lòng của một con người không bao giờ quên ý thức và tự ý thức về mình. Ta hãy nghe cách bà bày tỏ:
“Này của Xuân Hương mới quệt rồi”
2.3. Thú vui trần thế và khát vọng tình yêu
(Mời trầu)
Không dùng đại từ nhân xưng mà bà xưng tên riêng của mình “Này của Xuân Hương”. Lối nói mang đầy ý thức khẳng định và niềm tự hào, đến kiêu hãnh trong lời tình tự kia đã thể hiện rõ cái tâm của người mời trầu. Xuân Hương mời trầu cũng là mời duyên, mời tình và bày tỏ lòng mình. Với cách xưng danh xưng tính ấy thật tự tin, bà đã đi trước thời đại của mình rất xa, vì cách xưng hô như thế đến văn học hiện đại mới phổ biến – Đến thế kỉ XX, trong văn xuôi của Tự Lực Văn Đoàn, nam nữ mới tự gọi tên mình khi giao tiếp.
Có một người đàn ông La Mã xưa đã từng la lớn: “không thể sung sướng nếu không có đàn bà” (Narcissus) . Con người trần thế ở đây là con người sống giữa trần gian với tất cả những nhu cầu vật chất và tinh thần, thể xác và trí tuệ, với những khát khao thầm kín chính đáng của nó. Có lẽ thú vui trần thế và khát vọng tình yêu là những điều mà Xuân Hương chủ tâm hướng đến. Thú vui trần thế ở đây được hiểu như ông bà ta vẫn nói: đó là chuyện kín đáo chốn phòng the, chuyện vợ chồng, và như ngày nay chúng ta gọi một các trung tính đó là sex, tạm hiểu là quan hệ giới tính, quan hệ tình dục giữa những người khác giới. Khi nói đến cuộc sống trần gian với những thú vui trần thế thì không thể bỏ qua thú vui xác thịt.
Lịch sử phát triển và sự trường tồn của con người đã để lại nhiều di sản văn hóa đầy ý nghĩa từ vật chất đến tinh thần, từ vật thể, đến phi vật thể. Ở một mức độ nào đó, ta không thể phủ nhận vai trò tích cực của yếu tố tính dục trong đời sống của con người. Sự có mặt của tính dục đã giúp nhân loại nhận diện lại chính mình một cách đặc thù và độc đáo nhất. Vì hoạt động tính giao vốn là thuộc tính của mọi sinh thể sống (trong đó có con người). Tất nhiên ở đây người viết chỉ đề cập đến khía cạnh tính dục của con người. Quan hệ giới tính nằm trong “tứ khoái” của người bình dân “cơm nhà, cháo chợ, l vợ, nước sông”. Tất nhiên không chỉ đơn thuần là chuyện phòng the, để duy trì giống nòi. Hoạt động tính giao như một nhu cầu phổ biến, thiết yếu của con người, bất kể giàu – khó, sang – hèn. Torill Moi, nhà nghiên cứu về giới tính nói : “Tính dục có ý nghĩa như một hành vi bản năng, vượt lên trên bản năng đó, nó còn được biết đến như sự khơi nguồn, sự khởi đầu cho tình yêu và cả những cảm xúc nhân tính – khi tình dục thăng hoa mang trong mình phẩm chất cứu rỗi” . Đá trở nên có da có thịt, cỏ cây cũng có tình, cũng muốn nổi tình mây mưa, huống chi là con người bằng xương bằng thịt thật, lại luôn tràn trề cảm xúc và sinh lực:
(Đá ông chồng bà chồng)
Nếu Khổng giáo đề xuất tránh nhục dục, cho nhục dục là xấu xa thì Xuân Hương lại công khai ca ngợi, lại đem phô trương tất cả những “dày dày đúc sẵn một tòa thiên nhiên” đó ra giữa ánh sáng cuộc đời. Bà công khai ca ngợi thú vui của chốn phòng the. Bởi thú vui trần thế kia ai cũng muốn hưởng, bởi thú vui kia tồn tại trong mọi giai tầng xã hội, từ người bình dân đến người tôn quí, từ thứ dân đến vua chúa, ai cũng muốn thử và thử vướng vào rồi thì quên mất lối ra:
– “Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo”
– “Chồn chân mỏi gối vẫn còn ham”
“Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn Nguồn ân muôn trượng dễ khơi vơi”
– “Thú vui quên cả niềm lo cũ”
– “Ham việc làm ăn quên cả mệt”.
Như thế, tình yêu mang màu sắc tính dục và những đòi hỏi về lạc thú xác thịt chốn trần gian chính là chất men nồng nàn nhất cho sự đơm hoa kết trái của cuộc đời. Cùng khát khao và tận hưởng cuộc sống trần gian nhiều lạc thú mà cuộc đời đã ban tặng cho mỗi con người – phải chăng là thông điệp mà Xuân Hương muốn gửi cho lớp độc giả hậu thế. Đây được coi là thái độ sống tích cực, thể hiện quan điểm tiến bộ và nhân đạo với con người cá nhân, con người tự do, con người lần đầu tiên đạp đổ những ràng buộc vô lí và bất công của ngàn năm phong kiến để sống lành mạnh, thành thật với những khát vọng chính đáng của mình và đây cũng là điều làm cho thơ Nôm của Xuân Hương trẻ, thú vị mãi cùng thời gian. Cái nhìn về thú vui trần thế trong thơ Hồ Xuân Hương không chỉ trên bình diện triết lí tự nhiên mà còn phải là thứ tình yêu mạnh mẽ và say đắm:
Một tháng đôi lần có cũng không”
(Chơi Đền Khán Xuân)
” Năm thì mười họa chăng hay chớ
(Lấy chồng chung)
” Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con ” (Tự tình -2 )
Cái nhìn của Hồ Xuân Hương về thú vui trần thế, thú vui xác thịt dựa trên triết lí tự nhiên, và tình yêu mạnh mẽ say đắm là có lí do. Vì những vần thơ đó của bà là lời hát từ trái tim, từ chính cuộc đời bà và cũng là sự thể hiện sự phản kháng xã hội rõ ràng nhất. Quan hệ tính giao nhìn từ phương diện khoa học, ngoài chức năng duy trì nòi giống còn là thỏa mãn nhu cầu bản năng như một khát vọng chính đáng của con người. Nhưng chức năng thứ hai của quan hệ giới tính vẫn bị người đời coi thường – thậm chí cấm đoán. Truyền thống văn hóa và thực tế cuộc sống đã làm cho con người sống giữa những lằn ranh của luân lí. Một mặt con người khát khao hạnh phúc tình dục, mặt khác, họ lại bị tỏa chiết bởi ý thức phong kiến cho rằng: thân xác là tầm thường, quan hệ xác thịt là thú vui dâm dục của những kẻ tiểu nhân, người quân tử phải tìm cách chế ngự những dục vọng tầm thường đó. Những luân lí khô cứng đó vô tình đã đẩy con người rơi vào cuộc sống ép xác, che giấu khát khao thú vui trần thế và tình yêu hạnh phúc của mình. Họ không còn nhận ra khát vọng thật sự, khát vọng thuộc về bản chất của con người nữa. Hình ảnh vua chúa, quan lại – những kẻ đại diện cho thế lực chính trị, hay học trò, hiền nhân quân tử – được người đời coi trọng… trong thơ Hồ Xuân Hương chỉ là những đại diện cho những kẻ cố tình che đậy dục vọng, đam mê xác thịt một cách giả dối. Vẻ ngoài đạo mạo nhưng thực chất là những kẻ đầy lòng dục. Nên bà châm biếm, vua chúa cũng “yêu một cái này” (Vịnh cái quạt -1). Hồ Xuân Hương đã lột mặt nạ ngụy trang, những bình phong của bậc hiền nhân quân tử, điểm huyệt giúp họ trở về với con người thật của mình:
” Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mỏi gối, chồn chân vẫn muốn trèo “
(Đèo Ba Dội)
Theo lí thuyết của M. Bakhtin, chế độ xã hội phong kiến khủng hoảng, suy thoái thì văn học càng đậm tiếng cười. Đó là tiếng cười của toàn dân mong ước giã từ cái cũ để đi tới cái mới. Tiếng cười đó sinh ra thủ pháp hạ bệ, tức lôi hết thảy những gì cao siêu, lí tưởng xuống hạ tầng phồn thực xác thịt .
KẾT LUẬN
Hồ Xuân Hương là một trong số những nhà thơ trong thời kì văn học trung đại mà tên tuổi đã rực sáng trên thi đàn văn học của dân tộc. Đề tài về bà, cũng như những bài thơ Nôm kì tài của bà dẫu là cả một lịch sử vấn đề đã được nghiên cứu nhưng vẫn hết sức độc đáo với bất kì ai muốn tiếp tục hành trình thú vị này. Lâu nay, vấn đề nghiên cứu về Hồ Xuân Hương và thơ văn của bà đã rất phong phú; ta thấy một tài nữ, một tài thơ Xuân Hương. Hồ Xuân Hương hiện lên từ chính những bài thơ Nôm tươi rói chất cuộc đời với cả niềm vui, nỗi buồn đau, sự bướng bỉnh, hóm hỉnh rất thật. Nghiên cứu thơ Nôm Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn giới tính thực chất là tìm hiểu quan điểm, thái độ của nhà thơ đối với những nhu cầu, khao khát hạnh phúc trần thế của con người mà đặc biệt là đối với người phụ nữ. Ta bắt gặp trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương là cả một nền văn hóa, lối sống của người Việt, hơn nữa những vấn đề mà bà đề cập còn là những vấn đề gắn liền với đời sống tình cảm, đời sống tinh thần của dân tộc, không những thế, những điều đó cũng thuộc về những vấn đề của nhân loại, thuộc mẫu số chung của nhân loại – Những vấn đề thuộc về tâm thức chung của nhân loại – Những vấn đề con người còn và mãi quan tâm, là tiếng nói tri âm về những khát khao hạnh phúc trần thế của con người. Chính vì thế, thơ Nôm Hồ Xuân Hương luôn sống trong hồn độc giả, trong lòng dân tộc – như món ăn tinh thần quý báu. Nếu như người đời thường chiêm nghiệm cuộc đời bằng việc bói Kiều thì người ta dùng thơ Nôm Hồ Xuân Hương để thổ lộ những khát khao hạnh phúc được ái ân, được sống trọn vẹn của mình.
Điều này được thể hiện ở cả hai mặt nội dung và nghệ thuật thể hiện chúng tôi thực hiện trong hai chương của luận văn. Trước hết là nội dung xoay quanh những quan niệm của bà về người phụ nữ. Từ điểm nhìn giới tính, nữ sĩ thể hiện sự bình đẳng về giới, sự tự hào về giới, ca ngợi người phụ nữ với nét đẹp hoàn mỹ về hình thể. Trong đó luôn khẳng định vấn đề giới tính là điểm độc đáo và làm nên sức hấp dẫn của thơ Xuân Hương với nhiều thế hệ, điều đặc biệt là vấn đề giới tính được thể hiện cụ thể trong những khát vọng về tình yêu – khía cạnh hoà hợp thể xác, thú vui trần thế của con người. Vấn đề giới tính không chỉ được tiếp cận trong nội dung tác phẩm mà còn được khai thác từ những thủ pháp nghệ thuật thể hiện.
Rõ ràng Xuân Hương độc đáo ngay trong cách thức thể hiện; hết sức sáng tạo trong nghệ thuật tổ chức bài thơ, độc đáo hơn cả là phá vỡ sự cân bằng của kết cấu thơ Đường luật, tạo sự cân bằng mới về ngữ nghĩa trong lối tả vịnh, là cách tạo ra những câu thơ kết mang dấu hiệu mở, là cách sử dụng những biểu tượng và từ ngữ độc đáo hướng về giới tính. Bằng thiên tài của mình, dấu hiệu của sự sáng tạo có mặt ở khắp các bài thơ trong kết cấu sáng tạo, các biểu tượng tạo nghĩa độc đáo, trong một số thủ pháp nghệ thuật chơi chữ, nghệ thuật dùng những từ ngữ mới lạ, ấn tượng. Các thủ pháp nghệ thuật này đã tạo ra một giọng thơ rất riêng, rất Hồ Xuân Hương. Tất nhiên chúng ta hiểu được điều mà Xuân Hương muốn nhắn gửi qua những hình thức nghệ thuật ấy chính là những thông điệp cuộc đời mà bà gửi lại cho người đời chẳng thể nào khác ngoài những khao khát hạnh phúc của con người. Đây cũng chính là phần đóng góp của người viết trong đề tài này.
Văn chương nghệ thuật đích thực luôn lấy con người làm trung tâm thể hiện. Những khát khao, những nỗi niềm của con người bao giờ cũng là đề tài chính cho đối tượng của văn học, cho người nghệ sĩ sáng tạo. Hồ Xuân Hương cũng không nằm ngoài quy luật sáng tạo nghệ thuật ấy. Con người cá nhân trong thơ văn trung đại, đến thế kỉ XVIII, các nhà thơ, nhà văn đã có những thay đổi trong cách nhìn về đối tượng sáng tác của mình. Con người cá nhân được đề cao với đầy đủ những cung bậc của nó. Thơ Nôm Hồ Xuân Hương cũng hòa vào dòng chảy chung của những cảm hứng về con người cá nhân đó. Hơn bất cứ nhà thơ nào trước đó, Hồ Xuân Hương bộc lộ nỗi niềm riêng, khát vọng riêng một cách tha thiết, sâu sắc. Mà mục đích đầu tiên của sự thể hiện giới tính đó là khẳng định quyền sống trọn vẹn cho con người cá nhân. Thơ Xuân Hương là tiếng lòng của một người đàn bà khao khát được yêu, được sống và yêu sống một cách trọn vẹn. Khát vọng ấy làm cho tiếng nói của Xuân Hương độc đáo, khác lạ hơn những người cùng thời với bà. Có thể nói, viết những tác phẩm mang màu sắc giới tính cũng chính là đề cập đến những cái gì thuộc về con người, cuộc đời Xuân Hương. Một cái tôi nữ giới đầy cá tính, bản lĩnh chịu đựng trước nỗi đời cay cực để giữ trọn cái sắt son.
Với những kết cấu nghệ thuật độc đáo, tác phẩm đã bao hàm nội dung cần biểu đạt. Bà muốn khẳng định triết lí sống trong thơ Nôm của mình, triết lí vì con người, vì sự sống trọn vẹn, đầy đủ những khát khao hạnh phúc. Khát khao hạnh phúc là nhân bản, là vấn đề sống còn của con người. Điều này lí giải tại sao giới tính, thân xác không phải chỉ là một khía cạnh, một góc nhỏ trong thơ Hồ Xuân Hương mà là một nội dung phổ biến bằng cả một hệ thống biểu tượng, hình ảnh.
Không hiểu tại sao nhưng mỗi khi nghĩ về nữ sĩ này, người viết luôn có cảm giác con người tài tình ấy đang đi kiếm tìm hạnh phúc…trên một con đương xa ngái – Một con đường khấp khểnh đầy nhọc nhằn của những người phụ nữ đi tìm hạnh phúc. Giống như những kẻ lang thang trên sa mạc, con người khát khao hạnh phúc, Xuân Hương như người thứ lữ cần giọt nước; dẫu chưa có được những giọt nước mát lành thì ảo ảnh về nó cũng sẽ làm dịu đi cơn khát; hạnh phúc dẫu mơ hồ, bé nhỏ, ít ỏi cũng xoa dịu phần nào nỗi khát khao của con người trong cuộc đời. Vì chút hạnh phúc nhỏ nhoi ấy người ta dám đánh cược số mệnh của mình trong vai tỳ thiếp, trong vai vợ lẽ để chấp nhận kiếm chút ít “miếng đỉnh chung”. Sống trong xã hội bất bình đẳng, một xã hội mà mọi nề nếp đạo đức đang trên đà suy thoái thì số phận con người được nhìn nhận rõ nét hơn cả. Và con người được bộc lộ mình rõ nét hơn cả chính trong cuộc mưu cầu hạnh phúc, thể hiện một cách bản chất tính người, với những khát vọng chưa bao giờ đạt được của con người. Niềm khát vọng sống hạnh phúc trọn vẹn ấy đâu phải là khát vọng của riêng Xuân Hương nữa, nó trở thành sự khát khao của tất cả những người phụ nữ mà bà là người tiêu biểu. Xuân Hương đã ôm trọn trong trái tim mình sự rỉ máu của những nỗi đau và cả niềm khát vọng sống, khát khao hạnh phúc trọn vẹn cũa cả thời đại – một thời đại người phụ nữ chịu đầy bi kịch. Xuân Hương mang trong mình nỗi niềm của Thúy Kiều, của cả người phụ nữ sẵn lòng làm thứ “cơm nguội đỡ khi đói lòng” trong ca dao. Xuân Hương thu nhận cả khát vọng ân ái của người cung nữ, cả nỗi nhung nhớ của người chinh phụ, cả khúc li biệt não nề của công chúa Ngọc Hân… Người phụ nữ càng khát khao hạnh phúc thì càng chẳng có được nó một cách trọn vẹn trong xã hội ấy. Nàng Tấm muốn yên phận cũng không được, Thúy Kiều thông minh, sắc sảo rồi cũng bị cuốn vào kiếp đoạn trường, Thị Mầu phóng túng, lẳng lơ cũng là kẻ bất hạnh, Xúy Vân liều lĩnh rồi cũng hóa dại dại điên điên… Hồ Xuân Hương không cam chịu, bà cất tiếng nói đòi quyền sống cho người phụ nữ: quyền được làm vợ, làm mẹ, quyền được yêu và hưởng hạnh phúc chăn gối một cách trọn vẹn – những quyền sống tối thiểu và thiết yếu của giới mình.
Thơ Xuân Hương là thơ của nỗi niềm, của thân phận rất riêng nhưng cũng là tiếng nói cho mọi người. Có thể nói, đề cập đến những vấn đề giới tính trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương là đề cập đến những vấn đề nhân bản. Dưới góc nhìn giới tính, chúng tôi đã tìm hiểu, phân tích, so sánh thơ bà với thơ văn cùng tư tưởng như bà trên thế giới để thấy rằng con đường đi đến với các thiên tài sáng tạo đều có điểm chung đó là các vấn đề con người làm cho “người gần người hơn”.
--- Bài cũ hơn ---
- Giáo Án Ngữ Văn 11 Tiết 6: Hồ Xuân Hương
- Ghi Chú Thêm Về Thơ Hồ Xuân Hương
- Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Nhà Thơ Hồ Xuân Hương
- Hồ Xuân Hương Đà Lạt Và 10 Điều Thú Vị Nhất Ở Đây
- Ly Kỳ Những Câu Chuyện Sự Tích Hồ Xuân Hương Đà Lạt