--- Bài mới hơn ---
Vì Sao Sao Diêm Vương Không Còn Là Hành Tinh Thuộc Hệ Mặt Trời?
“vì Sao Đông Ấm, Vì Sao Hạ Mát”: Bản Ngôn Tình Ngọt Ngào Đầy Cảm Động
Nơi Nào Đông Ấm
Câu Trả Lời Cho “tại Sao 1 + 1 = 2?”
Giá Vàng Tăng Vọt Trở Lại
Trường Học viện ngoại giao
Khoa Chính trị quốốc tếố
Đếề tài: Việt Nam – ASEAN:
1
tránh khỏi những sai sót, rất mong ý kiến đóng góp của mọi người để chúng tôi có thể rút
kinh nghiệm cho những lần nghiên cứu sau này.
Trang
Lời nói đầu………………………………………………………………………………..1
Gia nhập ASEAN- chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước…….3
Phù hợp… …………………………………………………………………………………..5
…nhưng có phải là phù hợp nhất?………………………………………………..6
Sớm, hay là muộn?…………………………………………………………………….11
Kết luận……………………………………………………………………………………. 14
2
Gia nhập ASEAN- chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước
Thực tiễn 15 năm qua đã khẳng định chủ trương gia nhập ASEAN là chính sách
đúng đắn, kịp thời, có ý nghĩa lịch sử và chiến lược quan trọng. Tham gia hợp tác ASEAN
đã và sẽ mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích quan trọng và thiết thực về an ninh, chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại,… với mục tiêu bao trùm là giữ vững môi trường
quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước; đồng thời góp một phần rất
lớn trong việc duy trì môi trường hòa bình và ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác
3
và phát triển khu vực Đông Nam Á thông qua việc xây dựng một Cộng đồng ASEAN
thống nhất, liên kết chặt chẽ. Đặc biệt, Việt Nam có cái nhìn thực tế hơn để cố gắng, nâng
cao năng lực cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Là thành viên của ASEAN tạo thế cho Việt Nam mở rộng và tăng cường quan hệ
với các đối tác khác ngoài ASEAN, nhất là các nước lớn, cũng như tham gia sâu rộng hơn
vào các khuôn khổ hợp tác quốc tế hay liên khu vực rộng lớn như ASEAN+3, EAS,
APEC, ASEM, chúng tôi đó góp phấn nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của Việt Nam.
Hội nhập ASEAN đã giúp Việt Nam đào tạo và nâng cao năng lực của đội ngũ cán
bộ tham gia các hoạt động đa phương cũng như hội nhập khu vực và quốc tế, góp phần
tạo bước chuyển biến tích cực trong việc xây dựng và hoàn thiện chính sách .
Bên cạnh những thuận lợi trên Việt Nam đã và đang phải đối mặt với những thách
thức cần vượt qua để có thể tham gia đầy đủ và hiệu quả hơn vào các hoạt động của
ASEAN, tương xứng với vị trí và vai trò của mình trong Hiệp hội, như: sự khác biệt về
chế độ chính trị và hệ tư tưởng trong ASEAN; Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi và
hiệu quả quản lý còn bất cập, hệ thống các thể chế kinh tế thị trường phát triển chưa đồng
bộ, còn yếu kém. Ngoài ra, ASEAN tạo ra sức ép lớn đối với các sản phẩm và thị trường
của Việt Nam trong và ngoài nước, có thể tạo ra các dòng di cư lớn, trong đó có “chảy
máu chất xám”, nạn thất nghiệp tăng do nhiều công ty bị phá sản và nhiều người chưa thể
làm quen hay điều chỉnh phù hợp với cơ chế hay môi trường mới; cần chú ý giữ gìn bản
sắc văn hóa của mình với tiêu chí ” hòa nhập mà không hòa tan”,…
Tuy nhiên, những thách thức trên cũng gắn liền với nhiều mặt tích cực. Ví dụ như
việc những động thái và chính sách của Việt Nam vẫn được xem là tích cực trong các vấn
đề thế giới với chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam là luôn muốn tìm giải pháp
hoà bình để giải quyết các mâu thuẫn khu vực và quốc tế; các thách thức về kinh tế góp
phần đòi hỏi Việt Nam phải gia tăng cạnh tranh, phải thay đổi tích cực hơn trong đào tạo
trình độ tay nghề và cải tiến chất lượng sản phẩm, cũng như đổi mới cách thức sản xuất
với quy mô lớn; sự hòa nhập tạo ra giao lưu văn hoá và kèm theo là những dòng người
sang Việt Nam làm việc.
Như vậy, có thể khẳng định việc Việt Nam gia nhập ASEAN là một chính sách
đúng đắn, kịp thời của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Song, liệu thời điểm năm 1995 đã
phải là thời điểm gia nhập phù hợp nhất chưa?
4
Phù hợp…
Có thể khẳng định được ngay năm 1995 là thời điểm phù hợp để Việt Nam gia
nhập ASEAN vì những lý do sau đây:
Năm 1995, Chiến tranh lạnh đã lùi xa, thế giới đang nổi lên những thay đổi từ đối
đầu sang đối thoại, xu thế hội nhập và phát triển giữa các nước trở nên mạnh mẽ. Các
cuộc chạy đua vũ trang chấm dứt, vấn đề Campuchia được giải quyết đã mang lại những
cơ hội mới về quan hệ thân thiện và hợp tác cho các quốc gia khu vực Đông Nam Á. Sau
hơn 20 năm đấu tranh giành và bảo vệ độc lập cũng như xây dựng kinh tế, nhiều nước
trong khu vực bước vào thời kì ổn định, dốc sức để phát triển kinh tế. Các nước đều có
nhu cầu hợp tác cùng phát triển và từ đây, kinh tế được xem trọng trong chính sách của
mỗi nước. Vào lúc này, Liên Xô và Đông Âu đã tan rã dẫn đến việc Việt Nam bị mất đi
một chỗ dựa, một sự viện trợ lớn. Việc gia nhập vào một tổ chức khu vực càng trở nên
cấp thiết hơn bao giờ hết.
Trong cùng năm đó, Việt Nam mở rộng hợp tác Việt – Trung để giải quyết những
vấn đề còn tồn đọng giữa hai nước trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Trước đó, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã quyết định bãi
bỏ hoàn toàn cấm vận đối với Việt Nam vào năm 1994 và thiết lập cơ quan liên lạc Mỹ tại
Hà Nội đầu năm 1995. Đây là lần đầu tiên Việt Nam chính thức có quan hệ ngoại giao
trên cơ sở hòa bình và bình thường hóa quan hệ với các nước lớn trên thế giới; góp phần
củng cố vị thế của Việt Nam, tạo thêm điều kiện thuận lợi để Việt Nam mở rộng quan hệ
hợp tác với nhiều nước, nhiều tổ chức quốc tế, đặc biệt là với các nước trong ASEAN.
Trên thực tế, vào năm 1992, sau khi Việt Nam và Lào tham gia kí Hiệp ước Bali
1976 vào tháng 1/1992, ASEAN đã chấp thuận hai nước này trở thành quan sát viên của
5
…nhưng có phải là phù hợp nhất?
Tại sao mãi đến năm 1995 Việt Nam mới chính thức gia nhập ASEAN mà không
phải trước đó – từ năm 1975 – khi ASEAN chủ động mời Việt Nam gia nhập, hay là muộn
hơn – khoảng năm 1996 – để phát huy sức mạnh nội tại và giành thế chủ động? Mỗi giai
6
đoạn Việt Nam lại có những khó khăn cũng như thuận lợi khác nhau. Chúng tôi sẽ đi vào
xem xét, đánh giá và so sánh những giai đoạn đó để trả lời cho câu hỏi trên.
Chiến thắng năm 1975 đã chính thức đánh dấu chấm dứt chiến tranh trên lãnh thổ
Việt Nam, thống nhất đất nước và góp phần nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường
quốc tế.
Tuy nhiên, sau chiến tranh, Việt Nam vẫn còn trong quá trình khôi phục đất nước,
phải đối mặt với hàng loạt các vấn dề về kinh tế, xã hội và môi trường. Tuy được bảo trợ
về chính trị và viện trợ về kinh tế khá lớn từ Liên Xô nhưng kinh tế Việt Nam vẫn không
phát triển mạnh được. Các nước khác ngoài Liên Xô hầu như không có đầu tư hay viện
trợ cho Việt Nam, mà những sự giúp đỡ đó chuyển sang hình thức hợp tác, có đi có lại, có
vay có trả. Điều này tạo khó khăn mới cho Việt Nam trong tình trạng nội lực đất nước
không đủ mạnh và các mối quan hệ với nhiều nước còn bấp bênh. Mặt khác, vào khoảng
năm 1975-1976, Việt Nam đòi Mỹ bồi thường chiến tranh nhưng Mỹ không đồng ý; từ
năm 1976, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhận ghế thành viên chính thức
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB) của chính quyền Sài Gòn, đồng
thời gia nhập một số tổ chức về kinh tế khác (FIDA, SEV,…) nhưng cũng không đạt được
nhiều kết quả vượt bậc. Nhìn chung, tình hình trong nước của Việt Nam lúc này khá ảm
đạm, đòi hỏi sự giúp đỡ và hợp tác đa phương từ bên ngoài.
Mặt khác, tình hình thế giới có nhiều biến chuyển: Trung Quốc không còn lợi dụng
cuộc chiến ở Việt Nam để phục vụ cho lợi ích chiến lược của mình được nữa, còn Liên
Xô vẫn là một hậu thuẫn lớn của Việt Nam, nước Mỹ thì bị giảm uy tín sau chiến tranh và
đành phải quay giải quyết những vấn đề trong nước. Đây rõ ràng là thời điểm thuận để
Việt Nam gia nhập ASEAN, góp phần tạo nên tình thế mới có lợi hơn cho khu vực, đồng
thời Việt Nam có thể có được một thời gian hoà bình, ít nhất là một môi trường an ninh
xung quanh để đảm bảo tập trung phát triển kinh tế và tạo điều kiện thu hút sự hợp tác, hỗ
trợ nhiều hơn từ các nước trong khu vực.
Song, vào năm 1975, khi ASEAN nêu lại đề nghị mời Việt Nam tham gia thì Việt
Nam đã từ chối vì cho rằng ASEAN là một dạng khác của SEATO. Lập luận của Việt
Nam dựa trên cơ sở một số nước thành viên của ASEAN (Thái Lan và Philippines) đã gửi
quân tham chiến trong chiến tranh Việt Nam. Nhưng lý do chủ yếu là vào thời điểm này
chính sách đối ngoại của Việt Nam vẫn bị ảnh hưởng và tác động khá nhiều bởi vấn đề ý
thức hệ.
7
Tiếp đó, trong khoảng thời gian từ cuối 1977 đến cuối 1978, tình hình khu vực có
những thay đổi nhanh chóng: “Có đồng minh cũ, vì chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, đã trở
thành kẻ thù mới của ta và đã gây ra một cuộc chiến mới làm cho tình hình khu vực tiếp
tục không ổn định; có nước là chỗ dựa và hậu phương lớn của ta trong chiến tranh nay lại
có ý đồ kiềm chế ta, thậm chí gây xung đột và chiến tranh nóng ở biên giới và hải đảo của
ta, gây nhiều khó khăn cho ta và tạo ra một tình hình rất căng thẳng cho ta và cho khu
vực” (Trịnh Xuân Lãng).
Trước tình hình trên, Việt Nam chủ trương xây dựng quan hệ tốt với các nước
ASEAN để tạo môi trường xung quanh hòa bình, ổn định, rút lui những bảo lưu đối với
ZOPFAN; đề nghị với ASEAN để Việt Nam kí Hiệp ước Bali 1976 (Hiệp ước không xâm
lược) và trở thành thành viên ASEAN, nhưng các nước ASEAN đã bác bỏ đề nghị này.
Cần phải chú ý rằng vào thời điểm 1977-1978, các cuộc tranh chấp và xung đột
biên giới của Việt Nam với Campuchia xảy ra liên tục. Giai đoạn này chính là đỉnh cao
của xung đột Việt Nam – Khmer Đỏ 1975-1978 (cuộc xung đột thực ra đã bắt đầu ngay
sau khi Sài Gòn thất thủ, tức là chỉ vài ngày sau ngày thống nhất đất nước). Đây là tiền đề
phát sinh vấn đề Campuchia về sau này. Những động thái trên đã khiến các nước ASEAN
trở nên nghi kỵ và bác bỏ lời đề nghị của Việt Nam. Không thể phủ nhận một điều là Việt
Nam là một nước có vị trí địa lý, có tiềm năng kinh tế, có khả năng quân sự, thậm chỉ là
có sự ảnh hưởng nhất định về chính trị với nhiều nước lớn. Cho nên có thể hiểu được việc
trước đây các nước ASEAN lo sợ sẽ bị Việt Nam trả thù. Lần này, cuộc xung đột với
Khmer Đỏ khiến cho các nước ASEAN lo sợ thuyết Domino của Mỹ sẽ thành hiện thực
và nghi ngờ về chính sách hữu nghị của Việt Nam với ASEAN. Kết quả là nối tiếp Mỹ và
các nước châu Âu khác, ASEAN cũng tham gia cô lập và cấm vận toàn diện đối với Việt
Nam. Nhiều nước trên thế giới cùng lúc lên án hành động đưa quân vào Campuchia cảu
Việt Nam Quan hệ chính trị, ngoại giao của Việt Nam với nhiều nước trên thế giới trở nên
lạnh nhạt, thậm chí là đối địch; tình hình kinh tế, an ninh, xã hội trong nước càng trở nên
khó khăn hơn.
Một sự kiện khác đáng nhắc đến trong năm 1977 là việc Mỹ bắt đầu có những tín
hiệu hoà dịu với Việt Nam tỏ ý mong muốn bình thường hoá quan hệ hai nước nhưng
không đạt thành. Giả sử Việt Nam chủ trương muốn bình thường hóa quan hệ với Mỹ
ngay lúc này thì có lẽ sẽ không chỉ tranh thủ được viện trợ từ Mỹ mà còn tránh được việc
bị cấm vận, cô lập và thậm chí Việt Nam có thể gia nhập ASEAN đúng như ý muốn vào
cuối năm 1977, góp phần giúp giải quyết một loạt những vấn đề về sau này.
8
Ví dụ đến năm 1978 xuất hiện nhân tố Trung Quốc, Mỹ quay sang bắt tay với
Trung Quốc và đẩy nhanh quá bình thường hóa giữa hai nước, gác lại việc bình thường
hóa với Việt Nam. Lý do chính là vì lúc này quan hệ Xô-Mỹ, nằm trong cuộc chạy đua vũ
trang, vẫn chưa thực sự hòa dịu, Trung Quốc lại đang muốn vượt qua Liên Xô, mở rộng
ảnh hưởng ở châu Á-Thái Bình Dương nên muốn kiềm chế Việt Nam, đẩy mạnh chính
sách thù địch Liên Xô và Việt Nam để tăng cường quan hệ với Mỹ. Trung quốc là nhân tố
xúi giục quân Khmer Đỏ và lôi kéo các nước ASEAN tham gia cô lập Việt Nam.
Tóm lại, nếu không đặt lợi ích quốc gia (mục tiêu phát triển) sau nghĩa vụ quốc tế
(mục tiêu an ninh) thì Việt Nam đã có thể không phạm sai lầm đóng quân 10 năm trên đất
Campuchia để phải chịu hàng loạt những bất lợi và tổn thất sau này.
Đến tháng 9/1991, sau khi rút hết quân ra khỏi Campuchia (9/1989), một số lãnh
đạo Việt Nam có đề nghị tham gia Hiệp ước Bali 1976 ( thực chất là đề cập đến vấn đề
Việt Nam có thể trở thành thành viên ASEAN). Nhưng những đề nghị này khi đó không
được các nước ASEAN xem xét một cách nghiêm chỉnh vì vẫn tồn tại tâm trạng không tin
cậy rất lớn giữa Việt Nam và ASEAN, mặc dù Việt Nam đã rút quân khỏi Campuchia.
Mãi đến năm 1992, ASEAN mới có động thái mời Việt Nam tham gia kí Hiệp ước và trở
thành quan sát viên của ASEAN.
Có thể thấy từ trước khi kết thúc vấn đề Campuchia, Việt Nam đã hầu như không
có nhiều mối quan hệ ngoại giao vững chắc với các nuớc trên thế giới và trong khu vực,
đặc biệt là nhóm nuớc ASEAN, mặc dù luôn chủ động đẩy mạnh quan hệ đối ngoại song
phương, đa phương. Các cuộc tiếp xúc giữa nhóm nước Đông Dương và ASEAN vẫn duy
trì trong suốt thời gian diễn ra vấn đè Campuchia nhưng do sự nghi ngờ, chưa thông cảm
với nhau và cũng do thái độ của các nước lớn tác động, cuộc đối thoại không đạt kết quả
cụ thể. Tuy vậy quan hệ giữa Việt Nam và các nước ASEAN về gần cuối đã bớt căng
thẳng hơn.
Sau đó, Việt Nam đã nỗ lực thúc đẩy bình thường hóa quan hệ với các nước lớn,
thiết lập và thắt chặt quan hệ ngoại giao với các nước Đông Nam Á, tập trung giải quyết
những vấn lịch sử còn tồn đọng một cách nhanh chóng. Đặc biệt là sau khi trở thành quan
sát viên của ASEAN, Việt Nam đã có hơn 15 chuyến đi thăm tới các nước, nhanh chóng
hoàn thành mọi công tác chuẩn bị cho việc gia nhập chính thức vào năm 1995.
Như vậy, vấn đề Campuchia đã trở thành rào cản lớn nhất trong quá trình tìm cách
gia nhập ASEAN của Việt Nam. Quá trình sau khi vấn đề được giải quyết diễn ra nhanh
chóng, chặt chẽ hết mức có thể để gia nhập ASEAN nhằm giải quyết nhiều vấn đề kinh tế,
9
xã hội, văn hóa, chính trị,… trong nước và khu vực. Nói cách khác, nếu không vướng vấn
đề Campuchia thì Việt Nam có thể đã thuận lợi gia nhập ASEAN sớm hơn khoảng 10
năm.
Tới đây, ta đặt giả thiết năm 1995 Việt Nam vẫn chưa gia nhập ASEAN.
Lúc này, tình hình ngoại giao chính tr ị của Việt Nam khá khả quan: đã và đang
thiết lập, thắt chặt và thúc đẩy các mối quan hệ ngoại giao với nhiều nước trong khu vực
và trên thế giới; Mỹ đã bỏ hoàn toàn cấm vận; bình thường hóa quan hệ với Mỹ và Trung
Quốc. Riêng ASEAN đã có một quá trình xúc tiến cùng với Việt Nam trong việc để Việt
Nam tham gia ASEAN. Trên mặt chính trị, Việt Nam đã “sẵn sang tham gia ASEAN vào
thời điểm thích hợp…” (Tuyên bố của Tổng bí thư Đỗ Mười ngày 5/10/1993 tại Singapo).
Có một vài ý kiến cho rằng thời điểm năm 1995 là còn quá sớm cho việc gia nhập,
câu hỏi được đặt ra là: nên chăng Việt Nam cần chờ thêm một khoảng thời gian để có sự
chuẩn bị kĩ càng hơn sức mạnh nội tại, góp phần giúp Việt Nam chủ động hơn cả trước và
sau khi gia nhập ASEAN?
Vào năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á nổ ra khiến nhiều nước
ASEAN gặp khó khăn, nền kinh tế khủng hoảng trầm trọng. Việt Nam hầu như không
chịu ảnh hưởng, thực tế là do nền kinh tế của Việt Nam thời điểm này tụt hậu hơn nhiều
so với các nước trong khu vực, mặc dù đã gia nhập ASEAN và nhận được sự giúp đỡ, hợp
tác từ nhiều nước. Mặt khác, một phần do chịu ảnh hưởng các nước lớn nên “sự gắn kết
của các nước trong khu vực bị giãn ra, lỏng lẻo hơn, vai trò của ASEAN trên trường quốc
tế bị lung lay” (Nguyễn Vũ tùng, CSĐN VN II, tr87).
Thời điểm này nếu Việt Nam vẫn không có những chính sách phát triển mới đáng
ghi nhận thì cơ hội vào ASEAN sẽ không cao, và nếu không thực hiện được việc gia nhập
thì có khả năng Việt Nam sẽ bị tụt hậu ngày càng xa, bị hạn chế trong việc gia nhập với
một số tổ chức quốc tế (WTO,…), khó có cơ hội thể hiện tiếng nói riêng, bị chèn ép bởi
các nước lớn (như Trung Quốc),… gây khó khăn lớn cho kinh tế, chính trị và việc giữ gìn
bản sắc dân tộc của Việt Nam.
10
Vậy thì, đặt giả thiết trong khoảng thời gian 1991-1995 ngoài việc nỗ lực tham gia
ASEAN (tức là đến bỏ qua việc gia nhập năm 1995), Việt Nam cũng hướng đến đẩy
mạnh quan hệ hợp tác mọi mặt với các nước tư bản Đông Á như Hàn Quốc, Đài Loan,
Nhật Bản hay thậm chí với các nước ngoài khu vực như Mỹ để tìm giải pháp kinh tế, tăng
sức mạnh nội tại để chủ động hơn thì việc gia nhập ASEAN thời điểm này cũng không
hẳn là muộn. Nhưng điều này có thể sẽ tạo một mặt trái khác: việc hợp tác khu vực sẽ bị
hạn chế, quan hệ Việt Nam với khu vực không thực sự vững chắc và sâu sắc; liên minh
khu vực lỏng lẻo thì không đủ để có thể là một “cỗ xe nhỏ kéo một cỗ xe lớn” được.
Sau năm 1995, Việt Nam có đủ điều kiện hoàn cảnh, chính trị,… để gia nhập
ASEAN. Nhưng liệu việc trì hoãn thời điểm năm 1995 là có nên làm khi mà bản thân Việt
Nam còn đang gặp khó khăn từ nhiều phía?
Việt Nam gia nhập ASEAN là một quá trình. Quá trình này không chỉ dựa vào một
phía để giải quyết mà là tác động hai chiều, các nhu cầu của cả hai bên phải gặp nhau
đúng thời điểm đồng thời cũng có các nhân tố bên ngoài khác tác động (sự ảnh hưởng của
các nước lớn, tình hình khu vực và thế giới qua từng giai đoạn). Muốn nhận định đâu là
khoảng thời gian phù hợp nhất, cần xem xét giai đoạn nào có lợi ích to lớn và lâu dài hơn
đối với Việt Nam.
Sớm, hay là muộn?
Đánh giá giai đoạn 1975-1977 so với năm 1995:
Hai giai đoạn này đều có hoàn cảnh hòa bình cả trong nước, khu vực và thế giới.
Việt Nam cơ bản đã có quan hệ ngoại giao với một số nước nhưng về kinh tế thì đang gặp
rất nhiều khó khăn.
Giai đoạn 1975-1977 là thời điểm sau khi kết thúc Chiến tranh Việt Nam, xu
hướng liên kết, nhất thể hoá song song cùng với sự phát triển độc lập của mỗi quốc gia trở
nên phổ biến trên thế giới. Trong nước, nhân dân đặt niềm tin lớn lao vào sự lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, chính sách đối ngoại của Việt Nam chủ yếu vẫn
bị ý thức hệ chi phối nên hầu như chỉ tập trung mở rộng quan hệ với các nước xã hội chủ
nghĩa, đặc biệt là Liên Xô (thời kỳ này Liên Xô vẫn là hậu thuẫn lớn về chính trị, an ninh
và kinh tế của Việt Nam) và quay lưng lại với các nước tư bản chủ nghĩa (từ chối lời mời
của ASEAN và mong muốn bình thường hóa quan hệ của Mỹ. Bị ý thức hệ chi phối, tư
11
duy trong chính sách của Việt Nam đã không thay đổi kịp thời để bắt kịp với biến chuyển
của thời thế.
Nếu Việt Nam chấp nhận gia nhập ASEAN vào năm 1975-1976 thì sẽ thu được
những cái lợi hơn năm 1995.
Thứ nhất, các nước trong ASEAN đang phát triể`n theo đường lối tư bản với nền
kinh tế thị trường (mang tiềm năng phát triển kinh tế mạnh). Đến khoảng những năm 90,
các nước ASEAN “đủ long đủ cánh”, đầy đủ điều kiện để thực sự phát triển kinh tế. Việt
Nam có thể có cơ hội áp dụng nền kinh tế thị trường để phát triển một cách nhanh chóng,
bắt kịp với nhịp độ và trình độ của các nước trong khu vực, góp phần giải quyết khó khăn
trong nước. Chưa kể tốc độ phục hồi và phát triển của Việt Nam cũng khá nhanh mặc dù
xuất phát điểm của Việt Nam thấp hơn các nước khu vực. Tuy nhiên có thể có trường hợp
các nước tư bản lớn sẽ tranh thủ ảnh hưởng chính trị của mình vào Việt Nam (trong nước
còn tồn tại tàn dư cũ của chính quyền Sài Gòn, chính quyền miền Bắc còn chưa kịp củng
cố lại sau chiến tranh). Nhưng vào thời điểm này, tư tưởng chủ yếu của ASEAN và nước
lớn Mỹ là muốn vừa hợp tác vừa cạnh tranh, chưa kể dư âm của cuộc chiến vẫn còn nên
vấn đề trên không quá đáng ngại.
Thứ hai, vấn đề Campuchia cũng sẽ được nhìn nhận dưới góc độ có lợi hơn cho
Việt Nam hoặc thậm chí chúng ta có thể không vướng vào vấn đề này. Việt Nam có thể
giữ được hình ảnh và tạo niềm tin đối với các nước khu vực và thế giới trước sự kiện này:
không phải là một nước hiếu chiến như luận điệu của Trung Quốc mà là một nước tích
cưc và yêu chuộng hòa bình. Thậm chí Việt Nam còn có thể tránh được cấm vận và
những vấn đề gây bất lợi khác.
Thứ ba là việc có thể chống lại được sự bá quyền của Trung Quốc ở khu vực và
dần dần phát triển độc lập với các nước lớn xã hội chủ nghĩa. Việc gia nhập vào lúc này
có thể ảnh hưởng đến mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và Liên Xô, nhưng nếu Đảng và
Nhà nước Việt Nam đặt mục tiêu phát triển lên trên mục tiêu an ninh cũng như chuyển
biến cái nhìn mới phù hợp về thế giới thì sẽ giữ được quan hệ với Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa. Tất nhiên, việc này đòi hỏi sự khéo léo, nhay bén trong chính sách đối
ngoại để nắm thế chủ động và có khả năng Việt Nam sẽ không còn quá phụ thuộc vào
Liên Xô, Trung Quốc, từng bước phát triển độc lập hơn.
Ngoài ra Việt Nam còn có cơ hội tham gia được nhiều tổ chức khu vực và quốc tế
từ rất sớm. Đặc biệt là các tổ chức quốc tế mà Việt Nam đã tiếp nhận ghế thành viên từ
những năm 76 trở đi.
12
Đánh giá giai đoạn sau năm 1995 so với năm 1995:
Từ năm 1995 trở đi, tình hình khu vực hòa bình, ổn định, Việt Nam có quan hệ
mạnh mẽ với các nước; có thành tựu về kinh tế, văn hóa, giáo dục,… ; chính quyền được
củng cố hơn, tư duy đối ngoại đổi mới; hình ảnh đất nước được cải thiện trong mắt bạn bè
thế giới.
Nhưng các vấn đề khó khăn trong nước vẫn còn tồn tại, Việt Nam không có một
liên minh khu vực bảo trợ. Nếu đến sau năm 1995 Việt Nam mới gia nhập ASEAN, sợ
rằng Việt Nam sẽ rơi vào tình trạng phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế năm 19971998 vào thời điểm gia nhập. Cơn bão khủng hoảng đi qua khi Việt Nam chưa kịp có sự
liên kết chặt chẽ với các nước trong khu vực khiến cho việc gia nhập trở nên khó khăn
nhiều lần.
Gia nhập muộn cũng đồng nghĩa với việc chưa có một tổ chức khu vực nào có thể
đứng ra bao bọc, hỗ trợ cho Việt Nam trước sự đe dọa an ninh. Trung Quốc có thể vẫn
thực hiện việc bành trướng lãnh thổ, thi hành những âm mưu nhằm chia rẽ các nước Đông
Nam Á để dễ kiềm chế và chi phối khu vực này. Ngoài ra, mở rộng quan hệ với bên ngoài
cũng như gia nhập các tổ chức quốc tế khác như APEC, ASEM,WTO,… đều bị hạn chế.
Nói cách khác Việt Nam đang cần một liên minh khu vực chặt chẽ để giảm bớt sự
ảnh hưởng của các nước lớn, tạo môi trường và điều kiện cho ổn định và phát triển.
Thực ra việc liên kết khu vực rất quan trọng, vì khu vực là nơi có vị trí địa-chính trị
thuận lợi nhất với một quốc gia, dễ dàng tạo liên kết, cùng chung chí hướng. Thực tiễn
lịch sử chứng minh một khu vực phát triển và có liên kết chặt chẽ bao giờ cũng ổn định
hơn và an toàn hơn: những bất ổn ở Trung đông dẫn đến những nước phát triển như Isarel
hay chậm phát triển như Palestine đều phải quan tâm đến chiến tranh và khó mà dốc sức
cho việc phát triển kinh tế.
Do đó, việc trì hoãn lại thời điểm gia nhập ASEAN là không cần thiết. Điều ta cần
là tham gia liên kết đó càng sớm càng tốt, nhất là một liên kết khu vực để phát huy được
sự tương đồng về văn hoá, địa lí, khí hậu và trình độ phát triển để có một môi trường hoà
bình, ổn định và có nhiều thuận lợi hơn để phát triển.
13
Kết luận
Trong 15 năm gia nhập ASEAN , Việt Nam đã có nhiều bước chuyển biến quan
trọng làm thay đổi bộ mặt của đất nước theo chiều hướng tích cực. Lật ngược lịch sử,
chúng ta có thể thấy quyết định tham gia vào ASEAN năm 1995 của Việt Nam là quyết
định chính xác, phù hợp với thời điểm hiện tại. Nhưng giả thiết nếu chúng ta tham gia vào
ASEAN sớm (khoảng 1975-1976) thì biết đâu bây giờ Việt Nam lại có những kết quả khả
quan hơn?
Thời điểm 1975-1976 là thời điểm phù hợp nhất để Việt Nam gia nhập ASEAN.
Với động thái này, cách nhìn lịch sử sẽ có nhiều biến chuyển: Việt Nam có thể có được
mối quan hệ tốt đẹp với các nước khu vực và trên thế giới trong hoàn cảnh thế giới bắt
đầu hòa dịu; vị thế của Việt Nam sẽ trở nên ngang hàng về mọi mặt với các nước
ASEAN, bình đẳng hơn, chủ động hơn cả trước và sau khi gia nhập chứ không bị động
như thực tiễn của lịch sử.
Lịch sử đã đi qua, tuy không thể thay đổi được lịch sử nhưng bài học từ lịch sử qua
việc chúng ta gia nhập ASEAN vẫn còn đó. Đó là bài học phải biết đặt lợi ích quốc gia,
lợi ích dân tộc lên hàng đầu và chính sách đối ngoại nào cũng cần phải nắm bắt đúng thời
điểm mới phát huy được hết hiệu quả của nó.
14
Phạm Đức Thành – Trần Khánh (2006), Việt Nam & ASEAN: Nhìn lại và hướng tới,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
–
Học viện Quan hệ quốc tế (2001), Hội thảo Quan hệ Việt Nam-Thái Lan hướng tới
tương lại, Hà Nội.
–
PGS.TS Vũ Dương Huân (2003), Quan hệ đặc biệt Viêt – Lào, Hà Nội.
–
Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (1999), Xây dựng ASEAN thành
cộng đồng các quốc gai phát triển bền vững, đồng đều và hợp tác, Hà Nội.
–
Ban tư tưởng-văn hóa Trung ương – Vụ tuyên truyền và hợp tác quốc tế (2005),
Đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
–
(1991), Đảng Công sản Việt Nam – Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, NXB Sự thật.
–
Trường Chinh (1979), Về vấn đề Campuchia, NXB Sự thật, Hà Nội
–
Vũ Dương Ninh (2004), Việt Nam – ASEAN Quan hệ đa phương và song phương,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
–
Viện nghiên cứu Đông Nam Á (1995), Viêt Nam – Đông Nam Á: quan hệ lịch sử
văn hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
–
Tạp chí “Nghiên cứu Đông Nam Á”, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc
gia-Viện nghiên cứu Đông Nam Á.
–
ThS.Vũ Đoàn Kết, Chính sách đối ngoại Việt Nam Tập II, NXB Thế giới, Hà Nội.
TS.Vũ Dương Huân (2002), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp Đổi mới
(1975-2000), Hà Nội.
15
–
Ngày Việt Nam gia nhập ASEAN 28-7-1995,
http://tinhdoanbinhthuan.vn/index.php?
option=com_content&view=article&id=287:ngay-vit-nam-gia-nhpasian&catid=139:nhng-ngay-l-ln-trong-nm&Itemid=253
–
Những tác động của việc mở rộng ASEAN-7 lên ASEAN-10,
http://www.hocvienngoaigiao.org.vn/nr040730095659/nr040730100743/nr050517172
414/ns050523150037
16
--- Bài cũ hơn ---
Vì Sao Điện Thoại Vertu Đắt Đỏ Đến Thế, Giá Trị Có Thể Lên Tới Cả Tỷ Bạc?
Tuyệt Phẩm Khúc Thụy Du: Đừng Bao Giờ Em Hỏi Vì Sao Ta Yêu Nhau
Đừng Bao Giờ Em Hỏi, Vì Sao Ta Yêu Nhau
Những Câu Nói Hay Về Cuộc Sống Đáng Giá Nhất Hiện Nay
Bị Ung Thư Cổ Tử Cung Khi Mang Thai Phải Làm Sao?