Top 11 # Xem Nhiều Nhất Vì Sao Nhà Nước Liên Xô Sụp Đổ Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Cuocthitainang2010.com

Vì Sao Liên Bang Xô Viết Sụp Đổ?

Mikhail Gorbachev (phải) và Boris Yeltsin (trái) là 2 nhân vật đóng vai trò tối quan trọng trong sự kiện Liên Xô sụp đổ

Hai nhân vật đóng vai trò tối quan trọng tạo nên thảm họa này là “kiến trúc sư” cải tổ Mikhail Gorbachev và “Sa hoàng Nga thời hiện đại” Boris Yeltsin.

Sai nhiều ly, đi muôn dặm

Cuộc chính biến tháng 8-1991 là hệ quả tất yếu của quá trình chuyển đổi lệch hướng công cuộc cải tổ và công khai hóa, từng được Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Mikhail Gorbachev khởi xướng từ tháng 3-1985. Được “khua chiêng gióng trống” ầm ĩ, công cuộc cải tổ không những không chữa được những căn bệnh trầm kha của xã hội Xôviết mà cuối cùng còn giúp cho thế lực hữu khuynh, những kẻ thù giai cấp và đầy tham vọng cá nhân tận dụng triệt để trong việc kích động lực lượng phản kháng tác động đến phần lớn quần chúng đang mất dần niềm tin vào thể chế.

Kể từ khi trở thành Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1985, Gorbachev đã theo đuổi và tiến hành nhiều cải cách toàn diện trong hệ thống Xô viết. Thoạt đầu, Gorbachev chỉ muốn cải cách chế độ Xô viết lúc đó đang mắc chứng bệnh trì trệ khá trầm trọng do những nguyên nhân phần nhiều mang tính chủ quan. Không vượt lên trên được các đối thủ phương Tây trong Chiến tranh lạnh về hiệu suất cũng như thành quả lao động, không kiên quyết đấu tranh bài trừ những căn bệnh vốn bắt rễ và âm thầm lây lan trong giới cầm quyền như nạn tham nhũng, bè phái, hưởng nhiều đặc lợi vượt giới hạn, sùng bái chủ nghĩa hình thức, xa rời hay diễn giải sai lệch theo kiểu xu thời những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Gorbachev cũng không có phương án nào khả dĩ để đối phó với trào lưu dân tộc chủ nghĩa đang sinh sôi nảy nở và biến tướng từng ngày hay các vụ tranh chấp lãnh thổ giữa các nước cộng hòa… Đó chính là những nguyên nhân chính khiến Nhà nước Xô viết suy giảm tiềm lực và vị trí của mình trên trường quốc tế.

Đại diện cho phe cải cách như Yeltsin cho rằng nghị trình cải cách của Gorbachev quá chậm chạp, còn những người theo phe bảo thủ lại chỉ trích chính sách và hành động của Gorbachev là xa rời các nguyên tắc của chủ nghĩa Mác. Trong nỗ lực thúc đẩy chương trình cải cách của mình, Gorbachev đã dẫn đầu một phong trào sửa đổi Hiến pháp Liên Xô, bao gồm việc thiết lập một vị trí tổng thống mới tập trung nhiều quyền lực hơn. Những nỗ lực ấy đã tạo điều kiện cho một số lực lượng và phong trào mà Gorbachev không hề ngờ tới xuất hiện, đặc biệt là sự kích động và phát triển của chủ nghĩa dân tộc quốc gia từ phía các nước cộng hòa bên trong Liên bang Xô viết mà dân tộc Nga chỉ chiếm thiểu số, làm nảy sinh xu hướng ly khai khỏi thể chế trung ương tập quyền.

Ngày 15-3-1990, Đại hội Đại biểu nhân dân Liên Xô bầu Tổng Bí thư Mikhail Gorbachev làm tổng thống đầu tiên của Liên bang Xô viết với nhiệm kỳ 5 năm.

Liên bang Nga – chủ thể quan trọng nhất trong Liên bang Xô viết tuyên bố chủ quyền vào ngày 12-6-1990 và sau đó giới hạn áp dụng luật Xô viết, đặc biệt các luật lệ liên hệ tới tài chính và kinh tế, trên lãnh thổ Nga. Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao đề nghị tiến hành một cuộc trưng cầu dân ý trên toàn liên bang. Trong khi các nước cộng hòa vùng Baltic và các nước Armenia, Gruzia, Moldova tẩy chay thì đa số công dân của tất cả các nước cộng hòa khác trong liên bang đều thể hiện mong muốn gìn giữ Liên bang Xô viết. Sau nhiều cuộc đàm phán, 8 trong số 9 nước cộng hòa còn lại (ngoại trừ Ukraine) đã thông qua Hiệp ước Liên bang mới với mục tiêu biến Liên Xô thành một liên bang của những nước cộng hòa độc lập với một vị tổng thống, có chính sách đối ngoại và quân đội chung. Liên bang Nga, Kazakhstan và Uzbekistan dự định sẽ ký kết hiệp ước tại Moscow ngày 20-8-1991.

Như một sự an bài

Quân đội được triển khai tại Thủ đô Moscow trong những ngày xảy ra đảo chính ở Liên Xô

Yeltsin trở thành Tổng thống Nga thông qua cuộc bầu cử trực tiếp với chiến thắng vang dội. Theo thỏa thuận giữa Tổng thống Liên Xô Gorbachev với Tổng thống Liên bang Nga Yeltsin, Hiệp ước Liên bang mới phải được ký vào ngày 20-8. Tình thế này khiến cho nguyên soái Dmitri Yazov, lúc đó đang giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng Liên Xô cũng như nhiều đảng viên cộng sản Liên Xô đang ở những vị trí cao trong bộ máy liên bang chợt hiểu ra rằng bằng cách đó, sự tan vỡ của Liên bang Xô viết đã có thể đếm từng ngày. Trước nguy cơ Liên Xô tan rã nếu Hiệp định Liên bang mới được ký kết đúng vào ngày 20-8, Chủ tịch KGB Kriuchkov đã đứng ra tập hợp lực lượng để “tìm cách giải nguy”. Chiều tối ngày 18-8, vào cuối buổi làm việc, ông Kriuchkov đã gọi điện cho một số người thân cận, mời tới một căn cứ quân sự tại Moscow bàn chuyện đại sự. Sau cuộc họp kín, họ quyết định cử một phái đoàn tới Crimea, nơi Gorbachev cùng gia đình đang đi nghỉ dưỡng. Họ đã cố gắng thuyết phục Tổng thống Liên Xô đứng về phía họ và hủy bỏ việc ký Hiệp định Liên bang mới, nhưng đã không thành công.

Đúng 6 giờ 5 ngày 19-8 tại Moscow, Phó Tổng thống Liên Xô Gennady Yanayev đã công bố sắc lệnh bất thường về việc Tổng thống Gorbachev do tình trạng sức khỏe suy yếu nên không thể đảm đương được chức trách của mình và bắt đầu từ ngày 19-8, ông Yanayev sẽ đảm nhận cương vị quyền Tổng thống Liên Xô. Lúc này, tại biệt thự nghỉ dưỡng của mình ở Crimea, Gorbachev và gia đình bị quản thúc. Khi bị ép phải tuyên bố từ chức, ông ta thẳng thừng từ chối.

6 giờ 15 phút, ban lãnh đạo mới của Liên Xô ban bố lệnh áp dụng tình trạng khẩn cấp ở một số khu vực trong thời hạn 6 tháng. Một ủy ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp (GKCHP) đã được thành lập, đứng đầu là quyền Tổng thống Liên Xô Yanayev; các thành viên còn lại của ủy ban gồm Chủ tịch KGB Vladimir Kriuchkov, Bộ trưởng Nội vụ Boris Pugo, Bộ trưởng Quốc phòng Dmitri Yazov, Thủ tướng Valentin Pavlov… 9 phút sau, GKCHP đã ra lời kêu gọi quốc dân đồng bào và nhận trách nhiệm nắm giữ vận mệnh Liên Xô.

Quyền Tổng thống Yanayev cùng các thành viên GKCHP ngay lập tức lên Đài Truyền hình và Phát thanh quốc gia đưa ra một tuyên bố đanh thép buộc tội chính quyền Gorbachev, nhưng giọng điệu yếu ớt và bàn tay run rẩy của Yanayev không giấu nổi trước ống kính máy quay khi đang phát biểu ngay lập tức khiến mọi người có cảm giác ông này không phải là người có thể vãn hồi được trật tự xã hội.

Bài Học Từ Sự Sụp Đổ Của Liên Xô: Từ Mất Đảng Đến Mất Nước

Tháng 6/1988, Đảng Cộng sản Liên Xô họp Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ 19. Trong báo cáo, Gorbachev có đoạn bộc bạch: “Phương châm chủ yếu của cải tổ thể chế chính trị Liên Xô không chỉ là đề xướng vấn đề dân chủ hóa tính công khai và dư luận đa nguyên hóa. Mà là phải loại bỏ vấn đề Đảng Cộng sảnLiên Xô là hạt nhân của thể chế chính trị Liên Xô. Là vấn đề phải chuyển trung tâm quyền lực nhà nước từ trong tay Đảng Cộng sản sang Xô Viết”.

Tháng 7/1990, Đảng Cộng sản Liên Xô tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ 28. Đây là Đại hội cuối cùng trong lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô trước khi Liên Xô tan rã. Đại hội thông qua tuyên bố có tính cương lĩnh “tiến tới Xã hội chủ nghĩa dân chủ hóa nhân đạo” và một số nghị quyết khác. Từ đây, thể chế đa đảng và thể chế dân chủ nghị viện, ý thức hệ đa nguyên cũng chính thức trở thành phương châm chỉ đạo của Đảng. Các tổ chức chống Cộng thừa cơ được thành lập hàng loạt và phát triển lớn mạnh, triển khai cuộc đấu tranh với Đảng Cộng sản Liên Xô.

Kusov, Phó Chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Nga ngày 28/2/1991 nói: “Sửa đổi Hiến pháp chỉ vẻn vẹn một năm, đã có khoảng 20 chính đảng cấp Liên bang, có hơn 500 chính đảng cấp nước cộng hòa. Hầu hết trong đó trở thành lực lượng chính trị cuối cùng thúc đẩy Đảng Cộng sản Liên Xô bị hạ bệ và giải tán”.

Dưới sự cổ vũ của phương châm dân chủ hóa tính công khai và thể chế đa đảng của Gorbachev, tinh thần dân tộc chủ nghĩa ở các nước cộng hòa thuộc Liên Xô đã không ngừng dâng cao, khuynh hướng ly khai dân tộc hẹp hòi ngày càng trở nên trầm trọng. Tổ chức Đảng của các nước cộng hòa tham gia Liên bang cũng ngày càng xa rời trung ương. Từ năm 1989, Đảng Cộng sản của một số nước cộng hòa như Latvia, Lithuania (Lít-va), Estonia… đã đưa ra yêu cầu tách khỏi hoặc độc lập với Đảng Cộng sản Liên Xô. Bất chấp sự phản đối của Đảng Cộng sản Liên Xô, ngày 20/12/1989, tại Đại hội 20, Đảng Cộng sản Lithuania thông qua Tuyên ngôn, quyết định về địa vị của Đảng Cộng sản Lithuania, tuyên bố Đảng Cộng sản Lithuania tách khỏi Đảng Cộng sản Liên Xô, giữ quan hệ đối tác bình đẳng với Đảng Cộng sản Liên Xô. Gorbachev liên tục lùi bước trước tình hình này. Cái gọi là “phái dân chủ” trong Đảng đã lợi dụng tình hình để hưởng ứng, phối hợp chặt chẽ với chủ nghĩa ly khai dân tộc ngoài Đảng, tiến hành hoạt động chia rẽ Đảng Cộng sản Liên Xô, từ đó làm tan rã Liên Xô.

Ngày 17/3/1991, Liên Xô tiến hành trưng cầu ý kiến nhân dân toàn Liên bang. Trong đó, số phiếu bảo lưu Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết chiếm 76,4%. Số phiếu phản đối chiếm 21,7%. Nhưng sáu nước cộng hòa Gruzia, Lithuania, Moldovia, Latvia, Armenia, Estonia từ chối trưng cầu dân ý.

Ngày 23/4/1991, Gorbachev nhân danh Trung ương Đảng Cộng sản và Xô Viết tối cao Liên Xô tiến hành gặp gỡ những người lãnh đạo của chín nước cộng hòa Liên bang (Nga, Ukraine, Belarus, Kazakstan…), ra tuyên bố 9+1 đề xuất nhanh chóng ký kết Hiệp ước Liên bang mới với tên gọi là Cộng đồng các quốc gia độc lập SNG, xóa bỏ khái niệm “xã hội chủ nghĩa”. Sự kiện này về mặt luật pháp đã phá hoại thống nhất quốc gia, đặc biệt là thay đổi tính chất XHCN và phương hướng thống nhất của quốc gia. Cùng lúc, Yeltsin – Chủ tịch Xô Viết Liên bang Nga, cũng cố gắng làm tan rã nước này một cách không thương tiếc nhằm chiếm đoạt quyền lực tối cao.

Ngày 20/8 là ngày ký Hiệp ước Liên bang mới. Ngày 19/8, để giữ lại Liên Xô XHCN đồng thời ngăn chặn cái gọi là “phái dân chủ” lên nắm quyền, một nhóm lãnh đạo cao cấp của Đảng, chính quyền và quân đội Liên Xô đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp ở một số địa phương trong nước và thành lập Ủy ban tình trạng khẩn cấp do Phó Tổng thống Yanaev đứng đầu. Có thể coi đây là cuộc thử nghiệm cuối cùng của một số nhà lãnh đạo trong Đảng Cộng sản Liên Xô cố nhằm cứu vãn Liên Xô XHCN, tránh cho đất nước rơi vào thảm họa. Nhưng do họ không có niềm tin XHCN rõ ràng và kiên định, lại thiếu ý chí chính trị kiên cường trong đấu tranh thực tế, nên họ đã thất bại. Gorbachev đang đi nghỉ mát, có thái độ trước là lừng chừng, sau là phản bội, và đây cũng là điều góp phần đẩy nhanh tiến trình thất bại của sự kiện.

Sự kiện 19/8 kết thúc. Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tự giải tán trước sự thúc ép của Gorbachev. 4.228 tòa nhà làm việc, 180 trung tâm chính trị xã hội, 16 cơ sở nghiên cứu chính trị xã hội,… của Đảng Cộng sản Liên Xô đều bị nhà cầm quyền Nga niêm phong và tịch thu. Tổ chức Đảng Cộng sản khắp các khu vực Nga và ở các nước cộng hòa Liên Xô nhanh chóng bị giải tán hoặc bị cấm hoạt động. Toàn Đảng tan rã theo. Vậy là một đảng lớn, có gần 20 triệu đảng viên, đã mất địa vị cầm quyền sau 74 năm cầm quyền.

Cho đến hôm nay, trong hồ sơ của Trung ương hay của địa phương, đều không thấy ghi chép gì khi thế lực thù địch xóa bỏ Đảng Cộng sản gặp phải sự chống đối của tổ chức các cấp của Đảng. Không hề thấy ghi chép gì về việc đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô tập hợp lại một cách có tổ chức để tiến hành bất cứ một hoạt động phản đối quy mô lớn nào nhằm bảo vệ Khu ủy, Thành ủy hoặc Huyện ủy của mình.

Mất Đảng tất yếu đưa tới mất nước. Ngày 25/12/1991 là ngày cuối cùng Gorbachev làm Tổng thống Liên Xô, cũng là ngày tồn tại cuối cùng của Liên Xô. 10 giờ sáng, Gorbachev đến Phủ Tổng thống ở Điện Kremli chuẩn bị đơn từ chức mà ông ta sẽ đọc vào tối hôm đó. 19 giờ, Gorbachev qua máy ghi hình của Đài Truyền hình Trung ương Liên Xô và Đài Truyền hình CNN (Mỹ) đọc thư gửi nhân dân Liên Xô và toàn thế giới, tuyên bố từ chức, ngừng mọi hoạt động của mình với chức vụ Tổng thống Liên Xô. 19 giờ 32 phút, quốc kỳ Liên Xô hình búa liềm đã in đậm trong lòng nhiều thế hệ người Liên Xô và nhân dân thế giới trên nóc điện Kremli ủ rũ hạ xuống trong gió lạnh. 19 giờ 45 phút, lá cờ ba mầu của Liên bang Nga thay thế.

Buổi sáng 26/12/1991, Viện Cộng hòa Xô Viết tối cao Liên Xô họp hội nghị lần cuối cùng. Hội trường chỏng trơ, vắng ngắt. Trên đoàn Chủ tịch chỉ có một mình Alychanov, Chủ tịch Viện Cộng hòa. Các đại biểu giơ tay biểu quyết thông qua tuyên ngôn tuyên bố “Liên Xô ngừng tồn tại”. Đảng Cộng sản Liên Xô, Liên bang Cộng hòa XHCN Xô Viết – hai cái tên rực rỡ suốt hơn nửa thế kỷ, đã rút khỏi vũ đài lịch sử âm thầm như thế.

Sau khi Liên Xô tan rã, theo “liệu pháp sốc” của người Mỹ, ở nước Nga người ta tiến hành cưỡng chế thực hành cải cách tư hữu hóa trong lĩnh vực kinh tế. Kết quả rất nhanh là đưa đến một nền kinh tế tiêu điều và suy thoái nghiêm trọng. Đất nước nghèo đi nhanh chóng, xã hội rơi vào hỗn loạn. Phạm tội xảy ra tràn lan. Theo tài liệu của Bộ Nội vụ Nga, lúc đó toàn quốc xuất hiện hơn 8.000 băng nhóm tội phạm cỡ lớn có tổ chức. Trong Thông điệp tình hình đất nước năm 1996, Yeltsin cũng thừa nhận: “Nước Nga hiện nay đã vượt Italia, trở thành vương quốc băng đảng mafia lớn nhất thế giới”. Từ năm 1991 đến cuối thế kỷ 20, tổng giá trị sản xuất trong nước của Nga giảm xuống 52% so năm 1990 (trong khi đó, vào thời kỳ chiến tranh từ năm 1941 đến năm 1945 chỉ giảm 22%). Sản xuất công nghiệp cùng thời kỳ giảm 64,5%. Sản xuất nông nghiệp giảm 60,4%. Đồng rúp mất giá. Vật giá tăng cao hơn 5.000 lần. Từ năm 1992 trở đi, dân số nước Nga luôn có xu thế giảm. Tuổi thọ bình quân của người Nga năm 1990 là 69,2 tuổi. Còn năm 2001 là 65,3 tuổi. Thậm chí, tuổi thọ bình quân của nam giới ở một số vùng giảm xuống đến 10 tuổi.

Đảng Cộng sản Liên Xô bị diệt vong, Liên Xô tan rã mang lại hậu quả tai hại cho Nhà nước và nhân dân Liên Xô. Năm 2005 khi đọc Thông điệp Liên bang, Tổng thống Nga Putin nói: “Liên Xô tan rã là tai họa chính trị nghiêm trọng nhất của thế kỷ 20. Đối với nhân dân Nga, đó là một bi kịch thực sự”. Rất nhiều học giả Nga cũng rút ra kết luận rằng, Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô tan rã làm cho phát triển kinh tế – xã hội thụt lùi mấy chục năm.

Một đảng do Lenin sáng lập. Một Đảng từng lãnh đạo giai cấp công nhân Nga lật đổ ách thống trị của nước Nga Sa hoàng, xây dựng thành công Nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên. Một đảng từng lãnh đạo nhân dân chống lại sự can thiệp vũ trang của 14 nước, bảo vệ thắng lợi thành quả cách mạng. Một đảng đã lãnh đạo chiến thắng phát-xít Đức trong cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại và cống hiến to lớn cho thắng lợi của thế giới trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Một đảng giành được thành tựu rực rỡ trong xây dựng CNXH và đi đầu trong việc đưa vệ tinh nhân tạo vào vũ trụ. Vì sao lại mất địa vị cầm quyền sau 74 năm cầm quyền?

Một đảng khi có 20 nghìn đảng viên đã lãnh đạo Cách mạng tháng Hai lật đổ ách thống trị chuyên chế Sa hoàng; khi có 35 vạn đảng viên đã giành được thắng lợi của Cách mạng XHCN tháng Mười và nắm chính quyền toàn quốc; khi có hơn 5.540.000 đảng viên lãnh đạo nhân dân chiến thắng phát-xít Đức hung bạo, lập chiến công bất hủ, chấm dứt Chiến tranh Thế giới thứ hai, vậy mà khi có gần 20 triệu đảng viên thì lại mất địa vị cầm quyền, mất Đảng, mất nước. Rốt cuộc, vấn đề là ở chỗ nào?

Vì Sao Liên Xô Tan Rã

Vì sao Liên Xô tan rã Chủ nghĩa Mac cho những nhà hoạch định kế hoạch tập trung

Trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, các nhà kinh tế thường tranh cãi về những giá trị tương đối của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, Liên Xô từ bỏ kế hoạch hóa tập trung theo chủ nghĩa Marx sau năm 1990 và bắt đầu quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Năm 2003 các cổ động viên của các câu lạc bộ bóng đá Chelsea chào đón ông chủ mới Rorman Abramovitch người đi lên trong kinh tế thị trường, bắt đầu là một nhà buôn bán dầu mỏ và sau đó là chủ tịch một trong những công ty dầu mỏ hàng đầu ở Nga.

Bức tường Berlin sụp đổ vì Liên Xô đã tụt hậu xa so với các nền kinh tế thị trường ở phương Tây. Những khó khăn cốt yếu nảy sinh là:

§Quá tải thông tin: Các nhà hoạch định kế hoạch không thể theo kịp chi tiết của những hoạt động kinh tế. Máy móc thiết bị bị gỉ sét vì không có người lắp đặt sau khi giao hàng, mùa màng thu hoạch bị thối rữa vì lưu kho và phân phối không phối hợp được.

§Động lực kém: Việc đảm bảo việc làm tuyệt đối làm giảm động cơ làm việc. Những người quản lý các nhà máy đặt hàng nguyên vật liệu vượt quá số lượng cần thiết để đảm bảo nguyên vật liệu cho năm kế tiếp vì các nhà hoạch định kế hoạch có thể điều hành số lượng dễ dàng hơn so với chất lượng nên các doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu mục tiêu số lượng bằng cách bỏ qua yêu cầu chất lượng. Thiếu những tiêu chuẩn về môi trường, các doanh nghiệp gây ô nhiễm nghiêm trọng. Kế hoạch hóa tập trung dẫn đến hàng hóa chất lượng thấp và làm hại cho môi trường.

§ Cạnh tranh phi hiệu quả: Các nhà hoạch định kế hoạch tin tưởng rằng to lớn là tốt đẹp. Nhưng quy mô lớn làm các nhà hoạch định kế hoạch mất thông tin từ các hãng cạnh tranh, nên rất khó đánh giá hiệu quả. Thiếu sự cạnh tranh để chọn lựa thì không thể tránh được những sai lầm kinh tế.

Theo David Begg, Stanley Fischer, Rudiger Dornbusch. Kinh tế học. Bản dịch tiếng Việt, phiên bản thứ 8. 2008. Nhà xuất bản Thống Kê. Hà Nội.

Nguyên Nhân Khủng Hoảng, Sụp Đổ Của Chủ Nghĩa Xã Hội Ở Liên Xô Và Đông Âu

NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG, SỤP ĐỔ CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở LIÊN XÔ VÀ ĐÔNG ÂU Bắt đầu từ cuối những năm 80 của thế kỉ XX, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đi vào thời kì khủng hoảng. Từ tháng 4/1989 đến tháng 9/1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô lần lượt sụp đổ, tạo nên “cơn chấn động” chính trị lớn nhất trong lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Vấn đề đặt ra là vì sao chế độ xã hội chủ nghĩa lại bị thất bại ở Liên Xô và Đông Âu? Cho đến nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về hiện tượng lịch sử này, đưa ra nhiều nguyên nhân cả sâu xa và trực tiếp, cả bên trong và bên ngoài để cắt nghĩa, lí giải về sự khủng hoảng và sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu Với chúng tôi, khi nghiên cứu đề tài “Sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu”, chúng tôi xin đưa ra những nguyên nhân về sự khủng hoảng và sụp đổ ấy như sau: 1. Nguyên nhân khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu Bước vào thập niên 70 của thế kỉ XX, tình hình thế giới có nhiều biến động, báo hiệu cuộc khủng hoảng chung mang tính toàn cầu (không trừ một quốc gia nào). Mở đầu là cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về năng lượng dầu mỏ năm 1973, chứng tỏ sự khan hiếm và thiếu hụt của nguồn năng lượng dầu mỏ, dẫn tới giá cả tăng cao, kéo theo là hàng loạt các cuộc khủng hoảng khác về kinh tế, tài chính và chính trị, đặt ra cho toàn nhân loại những vấn đề bức thiết phải giải quyết (sự bùng nổ dân số, hiểm họa môi trường, tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt; sự giao lưu, hợp tác quốc tế ngày càng phát triển theo xu thế quốc tế hóa ) để thích nghi về kinh tế, chính trị và xã hội. Những biến động này đòi hỏi các quốc gia phải tiến hành những cải cách điều chỉnh về cơ cấu kinh tế, chính trị – xã hội cho phù hợp với tình hình mới. Đây là sự thách thức và cũng là một cơ hội để vươn lên của mỗi quốc gia, nhưng những người lãnh đạo Đảng, Nhà nước Liên Xô và Đông Âu lại không nhận thức đầy đủ những thách thức đó, chủ quan cho rằng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa không chịu sự tác động của cuộc khủng hoảng chung toàn thế giới nên chậm thích ứng, chậm sửa đổi và đã bỏ lỡ cơ hội này. Trước hết, là do quan niệm giản đơn, phiến diện quy luật về mối quan hệ giữa sản xuất và lực lượng sản xuất; cho rằng, có thể dùng ý chí cách mạng để xây dựng nhanh quan hệ sản xuất tiên tiến trên cái nền lực lượng sản xuất còn nhiều yếu kém và lạc hậu, và cho rằng, quan hệ sản xuất tiên tiến tự nó mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Liên Xô bị khủng hoảng từ lâu nhưng mãi đến năm 1985 mới bắt đầu cải tổ. Các nhà lãnh đạo Đông Âu thì cho rằng chủ nghĩa xã hội là ưu việt và bản thân họ chẳng có gì sai mà sửa chữa. Song khi thay đổi lại xa rời nguyên lí Mác – Lênin. Sau cuộc khủng hoảng năng lượng thế giới năm 1973, các nước tư bản chủ nghĩa đã ngồi họp lại với nhau và nhận thấy một điều rằng: sự phát triển của họ không còn phù hợp, cần phải tự điều chỉnh và thích nghi hơn với tình hình mới. Vì thế, họ đã nhanh chóng tiến hành nhiều cải cách, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, chính trị, xã hội, hình thức quản lí, đi sâu vào khoa học – kĩ thuật, đổi mới công nghệ, nên đã vượt qua được khủng hoảng và tiếp tục đi lên. Thế giới đang chứng kiến những đổi thay kì diệu do cuộc cách mạng khoa học – công nghệ mang lại. Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật thế giới hay còn gọi là cách mạng công nghệ bước sang giai đoạn mới, phát triển theo chiều sâu, đã đạt được những thành tựu kì diệu, có vị trí và ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát triển của lịch sử nhân loại: Một là, làm thay đổi các nhân tố sản xuất, thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của sản xuất và tăng năng suất lao động, mở rộng lĩnh vực hoạt động của con người, sáng tạo công cụ và kĩ thuật sản xuất mới, cải tiến việc sản xuất và quản lí lao động, nâng cao không ngừng mức sống và chất lượng cuộc sống của con người. Từ đó dẫn đến những thay đổi lớn về cơ cấu dân cư, chất lượng nguồn nhân lực, những đòi hỏi mới về giáo dục và đào tạo nghề nghiệp; hai là, loài người chuyển sang một nền văn minh mới với nhiều tên gọi; ba là, kinh tế thế giới được quốc tế hóa cao độ, xu thế toàn cầu hóa – khu vực hóa đang từng bước phát triển – thế giới như thu nhỏ lại, mọi sự liên lạc, gặp gỡ có thể diễn ra hết sức nhanh chóng; bốn là, những mặt trái của khoa học – kĩ thuật mà con người chưa thể khắc phục được như tình trạng ô nhiễm môi trường trên Trái đất cũng như trong vũ trụ, những tai nạn lao động và giao thông, các loại dịch bệnh mới và nhất là việc chế tạo những loại vũ khí hiện đại có sức công phá và hủy diệt nhiều lần sự sống trên hành tinh. Trong tình hình mới, mô hình và cơ chế kinh tế cũ của chủ nghĩa xã hội vốn đã tồn tại nhiều khuyết tật (phát triển kinh tế theo chiều rộng với hiệu quả thấp và thiếu sức sống, phủ nhận quy luật khách quan về kinh tế), đã cản trở sự phát triển mọi mặt của xã hội. Sau khi V.I.Lênin qua đời ở Liên Xô, chính sách kinh tế mới không được tiếp tục thực hiện mà chuyển sang kế hoạch hóa tập trung cao độ. Thời gian đầu, kế hoạch hóa tập trung đã phát huy tác dụng mạnh mẽ, song đã biến dạng thành kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Sau chiến tranh thế giới lần 2, Liên Xô vẫn tiếp tục duy trì mô hình này. Trong mô hình này đã tuyệt đối hóa, từ bỏ hay gần như từ bỏ một cách chủ quan duy ý chí nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường, thực hiện bao cấp tràn lan, triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của người lao động. Bên cạnh đó, một nguyên nhân khác là các nhà lãnh đạo của Liên Xô và Đông Âu đã đánh giá quá cao chủ nghĩa xã hội hiện thực và đánh giá quá thấp chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc; chủ quan nóng vội, đốt cháy giai đoạn trong việc hoạch định các bước đi của tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội (như quan điểm của Liên Xô về “chủ nghĩa xã hội đã hoàn toàn thắng lợi”, “xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa”, “chủ nghĩa xã hội phát triển” .), không thấy hết tính chất lâu dài, quanh co, phức tạp của thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Những sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo dài trên cản trở sự cải tổ, cải cách, đổi mới đúng đắn là nguyên nhân sâu xa làm chế độ xã hội chủ nghĩa suy yếu, rơi vào khủng hoảng. Đó không phải những sai lầm khuyết tật do bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, mà do quan niệm giáo điều về chủ nghĩa xã hội.