Top 3 # Xem Nhiều Nhất Vì Sao Nói Thế Kỷ 21 Là Thế Kỷ Của Châu Á Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Cuocthitainang2010.com

Thế Kỷ 21 Có Được Coi Là “Thế Kỷ Châu Á”?

Nếu như thế kỷ 19 do đế quốc Anh “làm mưa làm gió”, thì thế kỷ 20 lại là “thiên hạ của Mỹ” và hiện nay có thể nói là “Thế kỷ châu Á”, bởi vì động lực tăng trưởng kinh tế toàn cầu đã chuyển dịch từ phương Tây sang phương Đông.

Mức sống của người dân châu Á tiếp tục được nâng cao.

Theo một báo cáo của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) năm 2011, đến năm 2050 có thể sẽ có khoảng hơn 3 tỉ người dân châu Á có mức sống tương đương với người dân châu Âu, và đến lúc đó sản xuất của châu Á có thể chiếm hơn 50% giá trị toàn cầu. Vào thời điểm ADB công bố báo cáo trên, châu Á đang trỗi dậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế trong 5 năm của châu Á cao hơn 4 – 6 lần Liên minh châu Âu (EU). Tuy nhiên, thu nhập bình quân đầu người của các nền kinh tế mới nổi lớn của châu Á vẫn kém xa châu Âu. Dự báo xu thế này vẫn sẽ duy trì tới năm 2020.

Ngoài ra, xu thế tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao trong khu vực cũng đang chậm lại. Cùng với việc chỉ số tăng trưởng GDP của khu vực châu Á – Thái Bình Dương tiếp tục sụt giảm so với dự báo, các chuyên gia phân tích đều lần lượt hạ thấp dự báo tăng trưởng đối với phần lớn các quốc gia châu Á. Nguyên nhân chính được cho là tăng trưởng kinh tế do Mỹ dẫn dắt đã không thể thúc đẩy kinh tế châu Á. Thậm chí, việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất trong thời gian tới rất có khả năng làm suy yếu động lực tăng trưởng của khu vực này.

Ở châu Âu và Nhật Bản, viễn cảnh tăng trưởng kinh tế ngày càng ảm đạm, đây là một sự thật không phải bàn. Trong khi đó, ở Trung Quốc, mặc dù chính phủ nước này đang thúc đẩy chuyển đổi mô hình kinh tế, lấy tiêu dùng làm chủ đạo, đồng thời trong quá trình này tạo ra các cơ hội tăng trưởng mới song tốc độ tăng trưởng chậm lại vẫn là bình thường. Ở một số nền kinh tế lớn ở châu Á, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa vẫn tạo ra động lực to lớn, song thời đại tăng trưởng kinh tế cao đã đi qua. Đối với các quốc gia châu Á đang trỗi dậy như Ấn Độ, Myanmar và Philippines…, tăng trưởng dân số vẫn duy trì ở mức cao. Song nếu dân số ngày càng trẻ trong khi cơ hội việc làm là không đủ thì “kỳ tích tăng trưởng” có khả năng biến mất, thay vào đó là sự xuất hiện của các khu dân nghèo ở thành phố, thị trấn hoặc xã hội bấp bênh, không ổn định.

Để đề phòng sự xuất hiện các diễn biến tiêu cực, châu Á cần đẩy nhanh sự hòa hợp về kinh tế và gia tăng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trên quy mô lớn.

Đối với bản thân châu Á, các quốc gia trong khu vực không thể tiếp tục đầu tư ra nước ngoài mà không chú ý đến trong nước. Trong quá khứ, châu Âu và Mỹ đều như vậy, kết quả đó là tài nguyên công nghiệp của các nước đó bị đào khoét đến trống rỗng. Ở châu Á, hiện tượng xuất siêu cho thấy trong quá khứ các nước này lấy xuất khẩu để thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, hiện nay, châu Á cần chấp nhận thực tế cán cân thương mại bị thâm hụt, và chính sách nên tập trung vào đầu tư, nguồn nhân lực và mô hình tăng trưởng tiên tiến hơn.

Giải pháp lý tưởng là kết hợp Đông Nam Á và Nam Á nhằm tăng cường sức mạnh tổng thể của châu Á. Có thể nói, ở góc độ toàn cầu, không có khu vực nào sánh được với khả năng thương lượng về giá cả của khu vực Đông Á, Đông Nam Á và Nam Á. Về lĩnh vực quan hệ đối ngoại, nếu châu Á bị “chia năm sẻ bảy”, tăng trưởng của khu vực khó có thể duy trì; chỉ có đoàn kết nhất trí, các quốc gia châu Á mới có thể đạt được thành tích xuất sắc trên trường quốc tế.

Thế kỷ 21 có thể được gọi là “Thế kỷ châu Á” hoặc một tên gọi khác, điều này không quan trọng. Cho dù tăng trưởng thực tế của châu Á chậm lại, song điều quan trọng là khu vực này đang trỗi dậy, mức sống của người dân vẫn tiếp tục được nâng cao.

28. Vài Nét Về Phật Giáo Ở Châu Á Và Châu Âu Trong Thế Kỷ Xx

Phật giáo không còn nằm ở phương Đông nữa. Theo quy luật tiến hóa, giao lưu dần dần Phật giáo đã chuyển đến phương Tây. Phương Tây với những điều kiện xã hội, kinh tế và khoa học tiên tiến nhất trên thế giới sẽ có thể trở thành đầu tàu cho sự chấn hưng của đạo Phật trong thiên niên kỷ mới.

Mồng 8 tháng chạp nữa lại đến, thiêng liêng rộn rã trong niềm hân hoan của những người con Phật, chào đón ngày kỷ niệm Đức Bổn Sư Thích-ca thành đạo, đặc biệt năm nay Hòa Thượng Trưởng Ban Hoằng Pháp Trung Ương, cùng chư vị Tôn Túc, Thượng Toạ, Đại Đức tăng ni, quý Phật tử Việt Nam đã từ Việt Nam đáp máy bay sang Bồ-đề Đạo Tràng- Ấn Độ, các tăng ni sinh đang du học tại Ấn Độ từ thủ đô Delhi, các thành phố lớn Chandigarh, Varanasi…cũng vân tập tại Bồ-đề Đạo Tràng để cùng tổ chức đại lễ tôn nghiêm nơi chính cội cây Bồ-đề mà Đức Phật đã giác ngộ.

Hầu như tất cả mọi người con Phật chúng ta đều biết chính Hoàng đế A-dục là người đầu tiên đã gởi thông điệp của Đức Thích-ca-mâu-ni Phật vượt ra ngoài biên giới Ấn Độ 3 thế kỷ sau khi Đức Phật nhập diệt niết bàn. Từ đó Phật giáo trải qua những biến đổi thăng trầm.

Tại Ấn Độ, quê hương của Đức Phật, Phật giáo đã bị lãng quên trong 800 năm. Ngay cả vùng núi Himalaya nơi Phật giáo đã thịnh hành trong nhiều thế kỷ đã bị suy tàn vì sự nghèo nàn và tình trạng bất ổn. Trường phái Nguyên thủy Phật giáo bị mờ nhạt dần khỏi miền đất này, trong khi trường phái Đại thừa lại được hưng thịnh.

Do hai cuộc chiến tranh thế giới trong suốt thế kỷ vừa qua, cộng với những cuộc khủng hoảng chính trị, các nước như Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam, Lào, Cam Bốt và Miến Điện đã không thể thực hiện tiến trình truyền bá Phật giáo, nhưng quần chúng ở tại các quốc gia này vẫn duy trì Phật giáo với lòng tận tụy. Một số những người quy y theo Phật giáo cũng dần dần gia tăng đáng kể. Một sự kiện đáng kể nữa là việc phát sanh hàng trăm tông phái Phật giáo mới từ trường phái đại thừa Phật giáo. Tại Nhật Bản, Đại Hàn, Đài Loan, Trung Quốc, Tây Tạng, các tông phái mới này đã trở thành những tổ chức tôn giáo lớn, nhưng dường như có một cuộc cạnh tranh giành ảnh hưởng đối với tín đồ. Tuy nhiên, điều này là một dấu hiệu tốt của sự kế thừa trong suốt thế kỷ qua.

Ở Nhật Bản, trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, Phật giáo được sự bảo trợ của hoàng gia, nhưng sau chiến tranh và với sự cải tổ quản trị hành chánh mới đã tách Phật giáo ra khỏi chính phủ và mỗi bên có chức năng độc lập riêng.

Suốt thế kỷ vừa qua tại châu Á, các nước như Tích Lan, Bhutan và Miến Điện đã có được sự bảo trợ của chính phủ trong việc truyền bá và duy trì Phật pháp, Phật giáo đã được coi trọng trong hiến pháp của các quốc gia đó.

Trong thế kỷ 20, phương pháp thiền Phật giáo trở nên phổ biến và số người tu tập ngày càng gia tăng. Thiền như là một tinh hoa của Phật giáo phương Đông. Đây là một phương pháp rất bổ ích và phổ biến cả trong đạo lẫn ngoài đời, đã mang đến một tinh thần trong sáng, định tĩnh và một thân thể khỏe mạnh đầy sức sống cho mọi con người thực tập thiền. Phải nói đây là một phương pháp sống hữu hiệu cho tất cả, bất luận là người phương Đông hay Tây, là tôn giáo hay không tôn giáo.

Hai quốc gia chủ yếu theo Phật giáo đại thừa là Nhật Bản và Đại Hàn đã thực hiện một sự đóng góp lớn lao trong việc khởi xướng “Phật giáo quốc tế” bằng việc cúng dường tịnh tài cho Ấn Độ để phục hồi và phát triển những thánh tích Phật giáo như : Bồ-đề Đạo Tràng (Bodhgaya), Lộc Uyển (Sarnath), Câu-thi-na (Kushinagar), Na-lan-đà, núi Linh Thứu (Rajgir), Tỳ-xá-ly (Vaishali) Na-lan-đà (Nalanda) và Xá-vệ (Sravasthi). Họ cũng đã đóng góp to lớn việc xây dựng để xây cất các tự viện lớn và sửa sang những con đường dẫn đến các thánh tích chính. Về phía Việt Nam, có Hòa Thượng Huyền Vi, Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Linh Sơn Thế Giới, đã xây chùa Việt Nam tại Lumbini và Kushinagar; Thượng Tọa Như Điển, viện chủ Chùa Viên Giác, Đức Quốc, đang xây Trung Tâm Tu học Viên Giác tại Bồ-đề Đạo Tràng. Đặc biệt nhất là Thượng Tọa Huyền Diệu người đầu tiên đã xây hai ngôi chùa Việt Nam tại Bồ-đề Đạo Tràng và Lumbini, và cũng như cũng đã đóng góp vào việc xây dựng một chiếc cầu tại Lumbini cho dân làng ở hai bên kênh sông có phương tiện qua lại dễ dàng.

Trong các quốc gia như Singapo, Đài Loan, Tích Lan và Hồng Kông cũng tiến hành công cuộc chấn hưng Phật giáo trong cũng như ngoài nước. Đã xuất bản hàng ngàn bản kinh ấn tống cho giới phật giáo trong và ngoài nước một cách rộng rãi, trong đó phải kể đến như The Corporate Body of the Buddha Educational Foundation, Taipei…

Ở châu Á, trong số các quốc gia mà Hồi giáo có ảnh hưởng lớn như Malaysia và Indonesia thì Phật giáo cũng được phát triển do phật tử từ Tích Lan và Trung Quốc đến xây dựng nhiều tự viện và duy trì Phật giáo suốt thế kỷ vừa qua. Nhưng không có một sự cải thiện Phật giáo ở các nước như là Pakistan và Afganistan nơi mà một số lớn pháp bảo của Phật giáo đã được khai quật khảo cổ. Trong quần đảo Maldives không một ai có thể và được phép xây cất chùa chiền bởi vì sự quản lý chặt chẻ của Hồi giáo.

Nepal, (Lumbini, nơi đản sanh thái tử Tất-đạt-đa) là một quốc gia có hiến pháp tôn trọng Ấn giáo nhưng cộng đồng Phật giáo cũng được phát triển một cách độc lập mạnh mẽ.

Trung Quốc là một quốc gia có truyền thống đại thừa Phật giáo, sau cuộc cách mạng ở thế kỷ qua đã khiến Phật giáo và nhà nước tách biệt. Theo hiến pháp, mội người có quyền không theo tôn giáo nào cả. Nhưng trong suốt ba thập kỷ vừa qua của thế kỷ XX người dân đã biến Phật giáo thành một “tôn giáo bản địa” (chớ không coi là ngoại lai từ Ấn Độ).

Cũng chính trong suốt thế kỷ XX này, các tổ chức Phật giáo mạnh mẽ đại diện cho thế giới như là Hội nghị Tăng già Thế giới ( World Sangha Council), Hội nghị Phật giáo Thế giới ( World Buddhist Conference), Tổ chức Phật giáo Thế giới ( World Buddhist Organization), Hội Tăng già Phật giáo Thế giới ( International Buddhist Brotherhood), Hội nghị Phật giáo Châu Á ( Asian Buddhist Conference), và Hội đồng Tăng già Quốc Tế ( International Sangha Council). Những tổ chức này đã đấu tranh cho quyền lợi của cộng đồng Phật giáo trên khắp thế giới.

Một sự kiện đáng chú ý khác nữa trong thế kỷ qua là việc trân trọng trụ đá hình sư tử của vua A Dục ở Sarnath làm quốc huy của đất nước Ấn Độ, và trên quốc kỳ của Ấn Độ có biểu tượng Chuyển Pháp Luân ở Sarnath.

Tuy nhiên, có người đã cho rằng nếu mà người dân châu Á đã không bị hai cuộc chiến tranh thế giới và cuộc khủng hoảng chính trị suốt thế kỷ qua thì có lẽ Phật giáo sẽ hưng thịnh như thời đại hoàng kim của vua A Dục, phải không? Có lẽ cũng phải, nhưng thực tế mỗi quốc gia mỗi khác, nhìn chung tất cả đang cùng khắc phục những hoàn cảnh khó khăn riêng của từng nước mình và sự nhận thức về Đức Phật và Phật giáo trong quần chúng nhân dân và giới trí thức châu Á đã được gia tăng và có “sự tiến triển phía trước” (forward march) trong việc truyền bá Phật giáo và phát triển cộng đồng Phật giáo ở châu Á trong suốt thế kỷ qua.

Đó là đôi nét về Phật giáo ở Châu Á.Giờ xin phép được giới thiệu tiếp “Vài nét về Phật giáo phương Tây trong thế kỷ XX.”

Như chúng ta đã biết nhờ vào những tiến bộ không ngừng của kỹ thuật truyền thông và vận chuyển, sự giao lưu văn hóa giữa Đông và Tây đã trở thành mỗi ngày một thêm phong phú và mau lẹ. Đó là hiện tượng toàn cầu hóa ( mondialisation) của thế giới về các mặt văn hóa, kinh tế, chính trị và xã hội. Phật giáo cũng thế, lần đầu tiên khi truyền đạt đến phương Tây đã đối mặt với khoa học kỹ thuật là tinh hoa của nền văn minh phương tây, phát xuất từ nền văn minh cổ Hy Lạp; đã đối mặt với khoa học tâm thần, tôn giáo thần khải (Ky-tô Giáo); với nền văn minh vật chất cực thịnh, với kinh tế thị trường, chủ nghĩa tư bản, khuynh hướng tiêu thụ và hưởng thụ đang tràn lan.

Tuy nhiên, thử thách lớn nhất của Phật giáo không phải là khoa học, bởi vì nếu tìm hiểu suy nghĩ về những lời căn bản của Đức Phật dạy, ta thấy đầy đặc tính duy lý và tính khách quan của khoa học; cũng không phải đạo Phật đối mặt với tôn giáo thần quyền, vì xã hội ngày nay đang đi đến chiều hướng mất thiêng liêng ( desacralisation), những gì lỗi thời sẽ bị lùi dần và tan biến trong lịch sử. Cái thử thách lớn nhất của Phật giáo khi đến phương Tây là nền văn minh vật chất đang lan tràn.

Quan niệm hạnh phúc của phương Tây được thiết lập trên cơ sở ảo giác của đầy đủ về vật chất và tiền bạc; và những điều này chi phối toàn bộ đời sống con người. Thế nhưng, Eric Fromm- nhà tâm lý học xã hội Mỹ thật sự có lý khi nhận định rằng:

“Tuy có sự tăng trưởng sản xuất và tiện nghi, con người ngày càng đánh mất ý thức về bản thân, cảm thấy cuộc sống của mình ngày càng vô nghĩa, mặc dù cái cảm giác đó phần lớn không được biết đến.”6

Đúng vậy! Họ đang trở thành những người trống trải trong đời sống tâm linh đến nỗi họ phải than rằng: “Trong thế kỷ XX, vấn đề là con người đã chết.”7Vì vậy, họ bắt đầu đi tìm một lối thoát trong ngõ cụt đó bằng cách hướng về các truyền thống tâm linh của phương Đông mà cụ thể là giáo lý của Đức Phật.

Quay về nguồn cội lịch sử Phật giáo du nhập phương Tây trong thế kỷ XX như thế nào? Trước tiên chúng ta phải nói đến sự truyền bá Phật giáo qua phương tiện văn chương sách vở.

Nói đến tác phẩm sớm nhất viết về Phật giáo trong thế kỷ XX này là phải nói đến tác phẩm ” Eastern Monachism” của Spence Hardy được xuất bản ở Anh vào ngày 1-5-1850.

Công việc phiên dịch những kinh điển của Đức Phật sang các ngôn ngữ châu Âu bắt đầu bởi Ông Burnout và xuất bản tác phẩm ” Manual ofBuddhism” của Hardy vào năm 1860 đã gây cảm hứng cho Fausboll bắt đầu sự nghiệp phiên dịch kinh điển từ nguồn Pali.

Chẳng bao lâu sau tác phẩm nổi tiếng ” The Light of Asia” của Edwin Arnold ra đời năm 1879, Max Muller đã bắt đầu với dịch phẩm đồ sộ của mình là ” Sacred books of the East”(Thánh điển Phương Đông). Đây là bộ sách bán chạy nhất trong tất cả các sách Phật giáo ở phương Tây. Những bài thơ dựa trên ” Lalita Vistara” là một tác phẩm thuộc Bắc Phạn (Sanskrit) mà có lẽ được biên soạn vào thế kỷ thứ V. Đó là sự chỉ dấu đầu tiên đến hàng triệu học giả phương Tây về sự hiện hữu của một tôn giáo mà Edwin Arnold đã nói ” hơn một phần ba nhân lọai đã mang ơn tư tưởng và đạo đức Phật giáo.”

Cùng thời điểm đó sách Phật giáo đã đánh thức sự quan tâm Phật giáo ở người phương Tây. Một trong những cuốn sách đã bán rộng khắp các nước phương Tây kể cả châu Mỹ là cuốn ” The Light of Asia.”8

Vào năm 1880, Rockhill, Oldenberg, Samuel Beal, Childers và một vài người nữa đã cùng nhau trình bày sự cần thiết về hệ thống hóa các kinh điển Pali trước thế giới phương Tây; vì vậy Hội Kinh Điển Pali ( Pali TextSociety) được thành lập năm 1881. Đó là một sự sáng tạo có giá trị bất hủ của học giả Phật giáo nổi tiếng là Ông T.W. Rhys Davids và sau đó là vợ ông đã được cử làm chủ tịch của Hội Pali Text Society từ khi chồng bà mất vào năm 1923.

Thật ra trong số những người phương Tây, thì người Đức là người đầu tiên đã nghe về Đức Phật cao quý tối thượng có thể từ các nhà Thần học, mà các nhà Thần học này đã đọc các tác phẩm của Thánh Hieronymus, một trong các Cha của giáo hội Thiên Chúa đã mô tả về sự đản sanh kỳ diệu của Đức Phật. Nhưng về giáo lý của Đức Phật dường như không ai biết tí nào cả trong suốt thời trung cổ. Mãi cho tới thế kỷ XVII, các nhà triết học người Đức mới biết về Phật giáo. Chính Wilhelm Leibniz Gottfried (1644-1716) đã chọn vài điểm tinh hoa của giáo lý Phật giáo Trung Hoa rồi biên sọan thành những tác phẩm của mình.

Ở Đức, lãnh vực rộng lớn của tri thức Phật giáo là nguồn cảm hứng cho những tác phẩm của Immanuel Kant (1724-1804) nhưng chính Arthur Schopenhaver trong tác phẩm của mình đã giới thiệu một cách chi tiết về Phật giáo như là trí tuệ của người Ấn.9

Giai đoạn chói sáng nhất của Phật giáo ở phương Tây bắt đầu vào năm 1893 khi mà Hội Nghị Tôn giáo thế giới ( The World Parliament of Religions) được tổ chức ở Chicago, Hoa Kỳ.

Ngài Anagarika Dharmapala là người sáng lập ra Hội Đại Bồ-đề ở Ấn Độ vào tháng 5 năm 1891, và đã đại diện cho cộng đồng Phật giáo thế giới. Lần đầu tiên, hầu hết tất cả các đại biểu của các quốc gia phương Tây đã nghe ngài Anagarika Dharmapala đã nói về Đức Phật và giáo pháp cao thượng của Đức Phật. Bài thuyết trình của ngài diễn ra tại Hội Nghị Phật giáo thế giới với đề tài: “Thế giới đã mang ơn Đức Phật” ( The world Debt to the Buddha) đã gây ấn tượng sâu sắc đến các đại biểu tôn giáo thế giới.

Những tác phẩm viết về Đức Phật và Phật giáo ở Anh, Mỹ và Đức trong những giai đọan đầu hầu hết là những người truyền giáo Thiên Chúa. Vào thời buổi đầu, những nhà phương Tây đã thu thập kiến thức về Phật giáo chỉ qua sách vở và văn chương, và lần đầu tiên họ mới chính tai nghe được những pháp thọai nổi tiếng đầu tiên về Phật giáo do ngài Anagarika Dharmapala giảng tại Hội Nghị Tôn giáo thế giới, Chicago.

Sau Hội nghị này, ngài Anagarika Dharmapala được mời thuyết gỉang Phật pháp tại Tòa Thị Sảnh (Town Hall), New York và trong pháp thoại đó, ngài đã trình bày như sau:

“Thông điệp của Đức Phật đem tới cho chúng ta sự giải thoát khỏi thần học, nghi lễ, nghi thức, giáo điều, thiên đàng, địa ngục và các nguyên tắc lỗi thời của thần học. Đức Phật đã dạy cho dân tộc Aryans của Ấn Độ cách đây 25 thế kỷ một tôn giáo khoa học chứa đựng nền đạo đức vị tha vô ngã cao nhất, một triết lý sống xây dựng trên nhân sinh quan và vũ trụ quan hòa hợp với địa lý thiên văn, thuyết điện tử và thuyết tương đối.”

Ông bà Rhys Davids đã đóng một vai trò hướng đạo quan trọng trong việc truyền bá Phật giáo ở phương Tây, trong khi ” The Light of Asian” của Adwin Arnold thì đóng vai trò đã thúc đẩy sự hiểu biết giáo pháp và đời sống của Đức Phật.

Thế kỷ XX bắt đầu với một sự kiện quan trọng trong thế giới phương Tây là ông Charles Henry Allan Bennett (sanh tại Luân Đôn) đã có kiến thức uyên bác về Phật giáo qua việc đọc các bản dịch kinh điển, và đã xuất gia trở thành tỳ-kheo với pháp danh là Ananda Metteya.

Từ đầu thế kỷ XX, Phật giáo đã đánh thức sự quan tâm đáng kể ở phương Tây với những nền tảng như trên và có nhiều người đã tiếp thu những quan điểm của các hiệp hội phương Tây hoặc của Phật giáo hoặc của những người có tình cảm với Phật giáo. Điều này có lẽ được minh họa nhiều nhất từ lời phát biểu của nhà đại khoa học Albert Einstein ở thế kỷ XX rằng mặc dù ông không phải là một người theo tôn giáo, nhưng nếu là người có tín ngưỡng thì ông sẽ chọn là một phật tử.

Phật giáo đã chiếm một vị trí nào đó trong tâm tư của quần chúng và trong nhiều nước, đạo phật đã trở thành một tôn giáo thứ ba sau Ky Tô giáo và Hồi giáo.

Một trong những đặc điểm đầu tiên có thể được đánh giá cao là Phật giáo không bị hạn cuộc bởi văn hóa ( culture-bound), nói như vậy có nghĩa là Phật giáo có thể hòa đồng mà không bị giới hạn bởi bất kỳ xã hội hoặc nhóm chủng tộc nào, trong khi đó có vài tôn giáo khác thì bị hạn cuộc vào văn hóa, chẳng hạn như Do Thái Giáo, Ấn Giáo…

Suốt thế kỷ XX, Phật giáo đã dễ dàng du nhập vào các nước phương Tây từ nền văn hóa này đến nền văn hóa khác, bởi vì trọng tâm của Phật giáo là nhấn mạnh trong sự tu tập nội tâm hơn là các hình thức lễ nghi tôn giáo bên ngoài. Cũng giống như các truyền thống Phật giáo của các nước như Thái Lan, Tích Lan, Miến Điện, Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, Việt Nam, trong suốt các thế kỷ vừa qua, Phật giáo ở các nước phương Tây như Anh, Pháp, Ý, Mỹ đã được nổi dậy và phát triển. Phật giáo đã trở nên phổ biến ở phương Tây vì các yếu tố như tính thiết thực của Đạo Phật (phương pháp tu tập), cách ứng xử đối với các vấn đề thực tiển và không quan tâm đến các vấn đề học thuật cũng như lý thuyết siêu hình.

Cô Nathalie Verburgh, người Bỉ, hiện là sinh viên của viện Phật giáo quốc tế Karmapa tại New Delhi trong buổi chuyện trò với Jigme Rinpoche đã hỏi ngài nhìn thấy Phật giáo phát triển ở phương Tây như thế nào? Và ngài Rinpoche đã trả lời :

Và phương pháp để giúp người phương Tây đạt được sự trong sáng, chánh niệm trước lối sống vật chất đó thì không gì khác hơn là thiền định. Thiền định Phật giáo đã là một đề tài thu hút người phương Tây suốt thế kỷ vừa qua.

Ngoài ra với khuynh hướng “Thế tục hóa tâm linh,” cho nên đa phần đạo Phật ở phương Tây chủ yếu đạo của những người cư sĩ. Những vị phật tử tại gia này vẫn tiếp tục sống đời sống với gia đình, với xã hội nhưng tuân theo lời Phật dạy. Trong khi áp dụng đạo Phật vào xã hội phương Tây với những đặc điểm đặc thù của nó, người phật tử phương Tây bắt buộc phải sáng tạo, khế cơ, tìm ra những giải pháp thích hợp cho các vấn đề của thời đại, và hợp theo tinh thần của đạo Phật. Đối với họ đó là một vấn đề tự nhiên và tất nhiên, bởi vì không thể nào tránh khỏi đổi thay và chọn lựa, trong khi áp dụng một giáo lý cổ xưa, thuộc vào một nền văn minh xa lạ. Đó là nguồn sinh khí mới mà đạo Phật phương Tây mang lại cho Phật giáo thế giới là một cái nhìn mới về đạo Phật, và những kinh nghiệm mới, trong khi áp dụng đạo Phật vào cuộc sống mới.

Ở Châu Âu và Châu Mỹ, nói chung Phật giáo được tin tưởng bằng niềm tin ( saddha) với chánh kiến hơn là sự sùng tín ( bhakti) vào những vị thần linh đầy những phép mầu cứu vớt họ. Thêm vào đó, nhờ sống quen trong tinh thần khoa học, nên họ nghiên cứu Phật giáo cũng với tinh thần rất khoa học, phê phán và luôn luôn sẵn sàng đặt lại vấn đề.

Phật học cũng trở thành một ngành chuyên môn được giảng dạy trong các trường đại học lớn trên thế giới, và đã có nhiều công trình nghiên cứu phật học nghiêm chỉnh và có giá trị xuất phát từ đây.

Nhà sử học văn minh Arnold Toynbee đã nói rằng: ” Sự kiện có ý nghĩa nhất của thế kỷ XX này là sự gặp gỡ giữa đạo Phật và phương Tây.”

Sự nhận định đó đã được chứng minh một cách hùng hồn bởi sự phát triển mạnh mẽ của Phật giáo tại các nước Âu, Mỹ, và Úc Châu trong mấy thập niên vừa qua. Hàng ngàn tự viện, hiệp hội, đoàn thể, tổ chức đã hình thành tại phương Tây. Điều này xuất phát từ hai lý do chính: một là tính phổ biến của Phật giáo, hai là sự hiện diện của nhiều giới xuất gia và tại gia thuộc trường phái đại thừa đến từ các nước như Đại Hàn, Lào, Việt Nam, Miến Điện, Tây Tạng và Cam Bốt…Hoặc tạm cư hoặc định cư, các vị này cũng đã tổ chức các khóa tu học Phật, khóa thiền, khóa nhập thất ngắn ngày… Với những không khí đầy sinh động đó, khiến cho giới Phật tử theo tu tập ngày càng đông. Ngoài ra, họ còn cho in ấn kinh sách Phật, các lời dạy của các vị Lama tu chứng, các thiền sư, pháp sư nổi tiếng trên thế giới để phổ biến giáo lý Phật. Đặc biệt cuối thế kỷ XX và từ đầu thế kỷ XXI trở đi này với những phương tiện truyền thông điện tử dồi dào, qua các phương tiện viễn thông trên mạng internet hay website…họ đã đóng góp một phần rất lớn, nếu không nói là hàng đầu trên thế giới trong việc truyền bá Phật giáo đến với mọi người trên thế giới rất nhanh chóng mà có năng suất hiệu quả cao.

Tất cả điều này đã chứng tỏ rằng người phương Tây đã rất quan tâm đến Phật giáo.

Hội nghị truyền bá Phật giáo đầu tiên tổ chức tại Kyoto vào tháng 4/1998 đã quyết định truyền bá Phật giáo vào phương Tây trong kế họach của thế kỷ XXI này.

Như vậy Phật giáo không còn nằm ở phương Đông nữa, mà theo quy luật tiến hóa giao lưu dần dần chuyển đến phương Tây. Đạo Phật phương Tây sẽ là đầu tàu cho sự chấn hưng của đạo Phật với những điều kiện xã hội, kinh tế và khoa học tiên tiến nhất trên thế giới.

“Sự gặp gỡ giữa đạo Phật và phương Tây trong thế kỷ 20 là một điều bổ ích, không riêng cho phương Tây mà cho cả thế giới nữa. Đây là một dịp may lớn đối với đạo Phật, sẽ mang lại cho đạo Phật một nguồn sinh khí cần thiết. Đó có thể là một cuộc chuyển pháp luân mới.”

Christmas Humphreys, The Development of Buddhism in England. London: The Buddhist Lodge, 1937.

Glasenapp, Helmuth Von,The Influence of Buddhist Philosophy in East and West.

Sautina, Peter Della, Fundamentals of Buddhism. 1997.

Machinery, Arthur, Mahayana Buddhism in the West,1993.

International Buddhist Conference , Delhi, 1992.

, vol. 65, May 1957. The Maha Bodhi Journal Maha Bodhi Centenary Volume, ed. Upali Rupasinghe, Mahabodhi of India, chúng tôi Maha Bodhi, March 1895.

Báo cáo Tổng Kết công tác Phật Sự năm 1999 của GHPGVN ngày 3-1-2000.

số 30 ngày 24-8-2000 và Báo Giác Ngộ Nguyệt San Giác Ngộsố 10, tháng 1-1997.

Trong “Một cuộc chuyển pháp luân mới”, Báo Giác Ngộ số 30, 24-8-2000 trang 3, 6 và 7.

Giáo Dục Stem Cho Học Sinh Tiểu Học Xu Hướng Tất Yếu Của Giáo Dục Hiện Đại Thế Kỷ 21

Giáo dục STEM cho học sinh tiểu học là gì?

GIÁO DỤC STEM LÀ GÌ? – 3 ƯU ĐIỂM NỔI BẬT

Chương trình giáo dục STEM ở bậc tiều học

Chương trình giáo dục STEM cho học sinh tiểu học thuộc kiến thức các môn như “Cuộc sống quanh ta”, “Tìm hiểu tự nhiên” trên thực tế tại Việt Nam chúng có tên gọi khác là môn “Tự nhiên xã hội” cho lớp 1, 2, 3 và môn “khoa học” ở lớp 4, 5. Các kiến thức môn học đều được áp dụng hữu ích vào thực tế nên việc ứng dụng thêm giáo dục STEM sẽ giúp học sinh thuận lợi trong việc tìm hiểu và khám tự nhiên qua quan sát và thực hành thực tế. Ngoài ra ứng giáo dục STEM còn giúp học sinh nâng cao năng lực khoa học, vận dụng kiến thức khoa học để giải quyết những vấn đề trong cuộc sống, năng lực sáng tạo, năng lực thiết kế.

Thay vì tiếp xúc với giáo trình và bài vở khô khan như giáo dục truyền thống. Với chương trình STEM các môn học được tích hợp lại, sau khi học xong chương trình có bản thì trẻ sẽ được thực hành thực tế. Khi được chơi với các dụng cụ thực tế trẻ sẽ hào hứng hơn trong mỗi giờ học. Các giáo cụ chủ yếu là những con robot giáo dục. Khi trẻ tiếp cận với những chú robot trẻ sẽ được tiếp cận với lập trình, kích thích tư duy sáng tạo của mỗi trẻ.

Giáo dục STEM trong các môn học

Khoa học (Science)

Khoa học (Science): Học sinh sẽ được trang bị những định luật, định nghĩa, nguyên lý, lý thuyết khoa học cơ bản. Thông qua đó học sinh có thể ứng dựng giải quyết các vấn đề thực tế. Thực tế ở tiểu học những kỹ năng trên được phát triển qua các môn như tự nhiên xã hội ở lớp 1, 2, 3 và khoa học lớp 4, 5 với giáo dục truyền thông những môn trên trẻ chỉ được học qua sách vở khiến trẻ không thực sự hiểu rõ bản chất kiến thức.

Công nghệ (Technology)

Công nghệ (Technology): Học sinh có khả năng sử dụng, quản lý, truy cập công nghệ từ những đồ vật đơn giản như cái bút, quạt máy đến những hế thống phực tạp như máy tính, mạng internet,….Học sinh sẽ đươc học qua các môn như tin học, công nghệ.

Kỹ thuật (engineering)

Toán học (math)

Toán học (math): Học sinh được trang bị khả năng nhìn nhận vai trò của toán học trong mọi khía cạnh. Học sinh sẽ có một nền tảng toán học vững chắc, thể hiện ý tưởng, áp dụng thành thạo những khái niệm toán học và cuộc sống hàng ngày.

Những học sinh học theo cách tiếp cận giáo dục STEM đều có những ưu thế nổi bật như: kiến thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ và toán học chắc chắn, khả năng sáng tạo, tư duy logic, hiệu suất học tập, làm việc vượt trội và có cơ hội phát triển các kỹ năng mềm toàn diện hơn, đồng thời không hề gây cảm giác nặng nề, quá tải đối với học sinh.

Lợi ích của việc giáo dục STEM cho học sinh tiểu học

Giáo dục STEM cho học sinh tiểu học xu hướng tất yếu trong kỷ nguyên 4.0

Giáo dục STEM không hướng đến mục đào tào ra những thiên tài mà chú yếu trang bị cho học sinh những kiến thức, kỹ năng cần thiết trong thế giới kỷ nguyên số. Phương pháp giáo dục STEM giúp các các bé có thể đáp ứng với những yêu cầu công việc của thể ký 21. Các em sẽ được làm rất nhiều thí nghiệm vật lý như: do dung tích phổi, tạo núi lửa,…và các phản ứng hóa học siêu thú vị. Thông qua đó các em sẽ nhớ và hiểu bài hơn. Ngoài ra với những vật dụng đơn giản quên thuộc với các em như giày dép, mỹ phẩm, quần áo, sách vở đến những vật dụng phức tạm như điện thoại, máy tính,….sẽ được các thầy cô sử dụng trong những giờ kích thích khả năng sáng tạo của bé.

Học STEM giúp học sinh tiểu học có kiến thức da dạng, nâng cao kỹ năng mềm

Bên cạnh đó phương pháp giáo dục STEM còn trang bị cho các em những kỹ năng mềm như tư duy phản biện, kỹ năng làm việc nhóm, khả năng giao tiếp,….Thông qua các trò chơi dồng đội, các hoạt động đội nhóm các bé sẽ được thầy cô hướng dẫn vad khuyến khích bé thực hành.

Sau mỗi một sản phẩm, một thí nghiệm hoàn thành. Các bé sẽ cùng suy nghĩ cách trình bày, thuyết trình để sản phẩm của mình hấp dẫn, cuốn hút và thuyết phục thầy cô cùng bạn bè trong lớp. Việc này giúp bé gắn kết và đoàn kết với bạn bè. Củng cố khả năng thuyết trình, tư duy phản biện khoa học là những kỹ năng được đánh giá cao trong thế giới số.

Ngắn gọn một chút STEM là phương pháp giáo dục kế thừa những ưu điểm của cái cũ, ứng dụng kết hợp thêm thiết bị công nghệ mang đến cho người học kiến thức và trải nghiệm chân thực và hiểu qủa theo cách thông minh nhất.

Lời Kết

Đón đầu xu hướng giáo dục phát triển của thế giới đặt nền móng vững chắc cho con. Phương pháp tuy còn khá mới mẻ nhưng với tầm quan trọng và lợi ích đem lại từ các bậc cha mẹ, thầy cô, nhà trường cần tìm hiểu nâng cao nhận thực về giáo dục STEM cho học sinh tiểu học. mong rằng bài viết trên sẽ giải đáp phần nào băn khoăn về phương pháp giáo dục STEM trong lòng cha mẹ.

Vì Sao Uber Thất Bại Ở Thị Trường Châu Á?

Xét ở bất kỳ góc độ nào, quyết định bán cơ sở hoạt động ở Trung Quốc cho đối thủ Didi Chuxing của Uber trong tháng 4/2016 quả là một thất bại to lớn.

Cuộc chiến ngắn ngủi nhưng ngoạn mục giữa 2 ông lớn về ứng dụng đặt xe đã khiến Uber mất ít nhất 2 tỷ USD và chỉ thu về thái độ phản đối từ phía Chính phủ Trung Quốc. Dẫu vậy, vẫn còn một điều may mắn đối với Uber là họ có thể tập trung nguồn lực ở các thị trường khác, bao gồm thị trường Đông Nam Á đang phát triển nhanh chóng.

Hiện mọi thứ đang trở nên khó khăn hơn đối với Uber. Vào đầu tuần này, GrabTaxi Holdings – công ty hàng đầu về dịch vụ đặt xe ở Đông Nam Á – đã tuyên bố đã huy động được 2 tỷ USD (và sắp sửa có thêm 500 triệu USD nữa) để giúp công ty giữ vững vị thế ở khu vực này. GrabTaxi hiện đã vượt trội hơn khá nhiều so với Uber ở Đông Nam Á, nhờ kế hoạch kinh doanh khéo léo tập trung vào đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng Đông Nam Á, đặc biệt là về khía cạnh thanh toán. Nguồn vốn mới đổ vào có thể nới rộng thêm khoảng cách giữa 2 công ty lớn này – và còn để xem xét liệu việc áp dụng phương pháp one-app-fits-all tới trên toàn cầu của Uber có hiệu quả không.

Có ít nhất là 10 quốc rất khác nhau ở Đông Nam Á sở hữu kiểu thị trường mà lẽ ra công ty công nghệ toàn cầu có vốn hóa tốt như Uber nên phát triển thịnh vượng. Khu vực này hiện là thị trường internet lớn thứ 4 trên thế giới, trong đó hơn 50% trong số 640 triệu người dân sử dụng mạng internet. Những vị trí xếp hạng đang tăng nhanh chóng nhờ những người tiêu dùng trẻ, trung lưu háo hức chi tiêu.

Thị trường đặt xe ở Đông Nam Á được dự báo sẽ có giá trị khoảng 13.1 tỷ USD vào năm 2025, cao hơn rất nhiều so với mức 2.5 tỷ USD hồi năm 2015.

Theo một nghiên cứu của Google và Temasek, thị trường đặt xe ở Đông Nam Á được dự báo sẽ có giá trị khoảng 13.1 tỷ USD vào năm 2025, cao hơn rất nhiều so với mức 2.5 tỷ USD hồi năm 2015. Ấn tượng hơn nữa là mỗi quốc gia lớn ở Đông Nam Á rồi cũng sẽ có một thị 1 tỷ USD của riêng mình, trong đó hoạt động đặt xe chiếm 15% tổng chi tiêu du lịch ở khu vực.

Uber bắt đầu cung cấp dịch vụ ở Singapore vào đầu năm 2013, và mở rộng ra Malaysia vào cuối năm đó. Đối với những người sử dụng đã quen với dịch vụ đặt xe của Uber, trải nghiệm của họ là khá liền mạch. Tuy nhiên, đối với người địa phương, đặc biệt là ở Malaysia, Uber đang phải đối mặt với 3 vấn đề. Đầu tiên, dịch vụ của Uber đắt hơn rất nhiều so với taxi truyền thống. Thứ 2, thanh toán có thể chỉ được thực hiện thông qua thẻ tín dụng, bất chấp sự thật rằng người tiêu dùng rất ưa thích sử dụng tiền mặt. Cuối cùng, Uber – cũng như các dịch vụ xe hơi khác ở Malaysia – đang bị tác động tiêu cực bởi nhận thức cho rằng nó không an toàn, đặc biệt là đối với các tài xế nữ.

So với Grab, Uber cho ta cảm giác như là họ đang đẩy mạnh một mô hình kinh doanh và một ứng dụng được thiết kế và sử dụng cho các thị trường giàu có hơn. Dù không có dữ liệu công khai về thị trường đặt xe ở Đông Nam Á, nhưng Grab khẳng định rằng công ty đang năm giữ 95% thị phần đặt xe taxi thuộc bên thứ 3, và 71% trong lĩnh vực đặt xe cá nhân. Thực tế, trong khu vực Đông Nam Á, và đặc biệt là Malaysia và Singapore, dễ dàng thấy rằng Grab có nhiều xe hơi có sẵn hơn.

Grab không hề xem nhẹ vị trí dẫn đầu. Để củng cố thêm lợi thế của mình, Grab đang chuyển sang thanh toán điện tử. Trong năm 2016, công ty đã mua lại một công ty Indonesia có sử dụng công nghệ cho phép những người sử dụng điện thoại di động trả tiền mặt để được tiền trực tuyến (online credit); Vòng huy động vốn mới nhất của Grab được sử dụng để mở rộng GrabPay – một hệ thống thanh toán điện tử cho những người tiêu dùng có mua tiền trực tuyến. Grab thành thực cho biết công ty đang mơ về việc chuyển mình thông qua ứng dụng GrabPay thành một công ty tiêu dung cung cấp các dịch vụ tài chính và mua sắm, cũng như vận tải.

Grab báo hiệu rằng có ít nhất một công ty đặt xe địa phương đang cố gắng chuyển đổi tương tự, đồng thời hy vọng có thể gia tăng tính đa dạng hóa thông qua thanh toán điện tử. Tuy nhiên, về phần Uber, đây có thể là điểm dừng của hành trình chinh phục Đông Nam Á.