Top 3 # Xem Nhiều Nhất Vi Sao Toi Theo Dao Phat Huynh Uy Dung Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Cuocthitainang2010.com

Cách Phân Biệt Dao Seki Thật Giả, Làm Sao Mua Được Dao Nhật Made In Japan

Nhắc tới Nhật Bản chắc hẳn các bạn đều ấn tượng với những thanh kiếm Katana huyền thoại vô cùng nổi tiếng chế tạo bởi những sản phẩm thép chất lượng cao từ nền công nghiệp luyện kim hàng đầu thế giới của Nhật Bản. Dao Nhật Made in JapanSeki cũng như vậy, được làm từ nguyên liệu thép không gỉ chất lượng cao nên có độ bền, sắc bóng đẹp và rất an toàn với các loại thực phẩm khi chế biến.

Dao Seki thật Vật liệu lõi được làm bằng thép lưỡi thép không gỉ có độ cứng cao và kim loại bên được làm bằng thép không gỉ dễ mài, đạt được độ sắc nét và sắc nét. B00KKEBT9C

Không giống với các loại dao thông thường khác, chất liệu chủ yếu là sắt hoặc inox kém chất lượng, không được bền và bị mài mòn theo thời gian, lưỡi dao hay bị cùn, bị mẻ.

Dao Seki Nhật Bản làm từ thép cao cấp nên cầm rất đầm tay, thái cũng dễ dàng, dứt khoát hơn rất nhiều.

Dao Seki thật với tay cầm Nylon (Nhiệt độ chịu nhiệt 170 độ), tán đinh inox giúp cầm chắc tay và hiệu quả cao khi chặt, thái, tạo sự thoải mái cho người sử dụng.

Lưỡi dao làm từ Vật liệu composite vỏ thép không gỉ, bền đẹp theo thời gian. Việc mài các cạnh (góc) được tạo ra sau lưỡi cắt giúp thái thực phẩm tốt hơn và đạt được độ sắc nét hơn.

Với công nghệ mới Nhật Bản, Hoàn thiện thân lưỡi mỏng hơn trước (xử lý SE mới) và cắt lại (xử lý UL) để đạt được hình dạng ngao lý tưởng. Sức đề kháng giảm và độ sắc nét được cải thiện.

Việc mài các cạnh (góc) được tạo ra sau lưỡi cắt giúp cắt vào thực phẩm tốt hơn và đạt được độ sắc nét hơn.

Thông tin chi tiết sản phẩm:

Quý khách có nhu cầu mua Dao Seki thật, Dao Nhật Made in Japan xin vui lòng liên hệ shop Nhật Việt qua hotline: 0983131528 để được tư vấn cụ thế nhất.

Chúng tôi đáp ứng mọi nhu cầu mua hộ hàng Nhật về Việt Nam 24/7 giúp các bạn tìm được sản phẩm ưng ý, gửi yêu cầu Shop Nhật Việt theo 4 cách để shop báo giá và order :

Gửi link vào mail: shopnhatviet.com@gmail.com

Chat facebook với Shop theo link sau: fb.com/orderhangnhatban

Đặt Hàng online tại shopnhatviet.com/dathang

Gọi điện cho Shop qua Hotline 0983.1315.28 hoặc Chat Viber,Zalo

Kể từ năm 2010 đến nay Shop Nhật Việt Chuyên nhận Order Vận Chuyển hàng xách tay từ Nhật về Việt Nam và ngược lại. Nếu bạn có nhu cầu hãy liên hệ 0983.1315.28 để được tư vấn trực tiếp!

Mua Hàng Nhật Xách Tay : ✓ Hàng Nhật Nội Địa ✓ Giá rẻ ✓ Giao hàng miễn phí.

Tìm Kiếm Với Google:

Vien Chien Luoc Phat Trien

Tại buổi sinh hoạt, Ths. Nguyễn Quỳnh Trang đã giới thiệu đến các nghiên cứu viên trong Viện về phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của cộng đồng; đặc điểm, nguyên tắc, công cụ và lợi ích sử dụng phương pháp PRA; áp dụng phương pháp PRA ở Việt Nam. PRA là viết tắt của Participatory Rural Appraisal. Phương pháp PRA là cách tiếp cận từ dưới lên, khai thác các nguồn thông tin từ người dân, giúp họ tự tìm ra vấn đề và biện pháp khắc phục. Phương pháp này xuất hiện từ năm 1980 tại Ấn Độ và Châu Phi, do các nhà hoạt động trong công tác xóa đói giảm nghèo của Anh (Robert Chamber) nghiên cứu. Phương pháp PRA được phát triển từ phương pháp RRA (Rapid Rural Appraisal).

Nguyên tắc của phương pháp PRA là chủ yếu sử dụng kết quả định tính, kết quả định lượng chỉ mang tính hỗ trợ; kiểm tra chéo các nguồn thông tin từ các nhóm đối tượng khác nhau; vận dụng linh hoạt, sử dụng các phương tiện đơn giản, dễ hiểu; bình đẳng trong sự tham gia, tránh phân biệt giới và đối xử thiếu công bằng.

Phương pháp PRA cũng mang lại một số lợi ích như: nâng cao được tính xác thực, tính hiệu quả, bền vững cho quá trình xóa đói giảm nghèo và phát triển; tạo ra công bằng xã hội trong xóa đói giảm nghèo và phát triển; làm giảm bớt đi được sự phụ thuộc vào nguồn lực của nhà nước vì thông qua quá trình PRA sẽ phát huy được trách nhiệm của người dân trong phát triển cộng đồng.

Chủ đề sinh hoạt cũng đã nhận được nhiều ý kiến trao đổi xoay quanh vấn đề làm thế nào để có thể áp dụng phương pháp này vào Việt Nam một cách hiệu quả cũng như lồng ghép phương pháp vào các quy hoạch, chiến lược mà Viện thực hiện trong thời gian tới.

Kết thúc buổi sinh hoạt, Ths. Nguyễn Thu Lan, Phó trưởng ban Ban Phát triển nhân lực và xã hội cảm ơn bài chia sẻ của Ths. Nguyễn Quỳnh Trang và mong muốn sẽ có nhiều buổi sinh hoạt khoa học như thế này để các nghiên cứu viên trong Viện cùng tìm hiểu, nghiên cứu và chia sẻ những thông tin bổ ích./.

Nguồn: Viện Chiến lược phát triển.

Tieu Luan Triet Hoc: Triet Hoc Phat Giao

III. Nhân sinh quan Phật giáo.

Từ một vũ trụ quan căn cứ trên những thuyết nhân duyên sinh, thuyết sự vật duyên khởi đi đến nhận thức là vô thủy, vô chung, từ những thuyết vô thường, vô ngã bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu về những quan niệm của Đạo Phật về vấn đề nhân sinh quan. Ở đây chúng ta sẽ lần lượt trả lời các câu hỏi:

– Con người là gì ? Từ đâu mà sinh ra? Chết rồi đi đâu ?

Vị trí của con người trong Đạo Phật.

– Quan niệm của Phật về các vấn đề:bình đẳng, tự do, dân chủ….

– Có phải cuộc sống chỉ toàn là đau khổ ? và vấn đề giải thoát trong Đạo Phật là gì ?

Trước khi trả lời các câu hỏi trên chúng ta sẽ tìm hiểu và phân tích Tứ diệu đế vì đây là giáo lý kinh điển của Phật giáo bao quát toàn bộ các vấn đề trên.

Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế, là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành đạo tại vườn Lộc giã cho năm từ khưu trước kia đi theo Phật.

Tứ đế là đạo lý căn bản của Thanh Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của các thuyết khác trong giáo lý Phật. Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.

Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì sao mà khổ , phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ.

Nói như thế có người hiểu lầm cho rằng đạo Phật chủ trương cuộc đời chỉ toàn là khổ, và đạo Phật là đạo yếm thế. Thực ra, đạo Phật nhìn cuộc đời một cách khách quan, không ru người ta vào một giấc mơ Niết Bàn hay cực lạc và cũng không làm cho người ta sợ hãi, chán nản bởi những đau khổ trong cuộc sống. Phật chỉ cho chúng ta nhận thức sự vật, cuộc đời theo chân tướng của nó và chỉ dẫn cho chúng ta đi đến giải thoát.

Danh từ Dukkha của tiếng Xantít ta thường dịch là khổ là chưa thật hết nghĩa nên mới dẫn đến những hiểu lầm trên.

Trong phép tướng duy thức có nói đến ba loại thụ: khổ thụ, lạc thụ, xả thụ. Như vậy không phải chỉ có khổ thụ mà còn có lạc thụ. Đối với cảnh nghịch sinh ra khổ thụ nhưng đối với cảnh thuận thì sinh ra lạc thú. Các cảnh có thể làm cho người ta vui hoặc khổ hoặc không vui, không khổ. Đạo phật không phủ nhận những cảm giác vui (lạc thú ) của cuộc đời mà còn phân tích ra nhiều hình thức vui. Nhưng những cái vui ấy, cũng như những cái khổ ấy đều bao gồm trong danh từ Dukkha, vì những cái vui, cũng như những cái khổ ấy đều là vô thường hư giả.

Dù người tu hành chứng được những trạng thái thiền định cao siêu thì những lạc thú siêu thoát ấy vẫn là Dukkha vì những người tu hành ấy chưa thoát khỏi tam giới vô thường, hư giả.

Khổ thụ và lạc thụ đều là Dukkha cả, do đó chúng ta phải diệt là diệt cái Dukkha ấy chứ không phải là tránh khổ, tìm vui như thế gian thường hiểu, thường lầm.

Theo cách phân tích khác Phật chia cái khổ ra làm 8 loại:

1, Sinh khổ: Đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vô thường chi phối nên khổ.

2, Lão khổ: người ta mong muốn trẻ mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn cứ đến. Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào da, xương tủy thì da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì suy yếu đến ấy làm cho người ta phiền não.

3, Bệnh Khổ: Trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già yếu, thân thể suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ.

4, Tử khổ : Là cái khổ khi người ta chết. Chứng sinh do nghiệp báo chịu cái thân nào thì gắn bó với cái thân ấy coi như cái thân duy nhất của mình thì khi chết thì phiền não vô cùng.

5, Cầu bất đắc khổ: Người ta thường chạy theo những điều mình ưa thích, mong cầu hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não, khi cầu được rồi thì phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc.

6, Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.

7, Oán tăng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên mình.

8, Ngũ ấm xí thịnh khổ: ngũ ấm ấy là sắc ấm, thụ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức ấm. Ngũ ấm ấy che lấp trí tuệ, phải chịu cái khổ luân hồi trong vô lượng kiếp.

Tập đế còn gọi là nhân đế, là những nguyên nhân tạo thành sự khổ. Những nguyên nhân đó không phải tìm đâu xa mà ở ngay trong mỗi chúng ta. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng có thể tóm lại như sau:

1. Tham lam. 2. Giận dữ. 3. Si mê. 4. Kiêu mạn. 5. Nghi ngờ. 6. Thân kiến ( tưởng thân thể là thực có là trường tồn). 7. Biên kiến ( sự hiểu biết một mặt như chấp đoạn, chấp thưởng ). 8. Tà kiến ( sự hiểu biết không đúng ). 9. Kiến thử ( chấp trí hiểu biết của riêng mình là đúng). 10. Giới cấm tu ( tu hành không chính đạo ).

Ba nguyên nhân chính ( tham, sân, si) Phật còn gọi là tam độc, là nguồn gốc của mọi sự khổ. Nguyên nhân của tam độc là do ái dục và vô minh được thể hiện trong công thức sau:

Đạo Phật là một đạo không chỉ để người ta học mà chủ yếu cho người ta hành. Thực ra, những cái mà ta học được trong kinh điển mới chỉ là một kiến thức lỏng lẻo có tính chất lý thuyết. Ta mới chỉ nghe thấy nói đến những thuyêt vô thường, vô ngã, sắc không… mà thôi. Còn tu hành là phải gắng sức thực nghiệm những chân lý đó. Hiểu đạo không phải chỉ là nghiệm đạo qua kinh điển mà phải trải qua học đạo, tu đạo, chứng đạo. Thời đại ngày nay là thời đại của phát triển, của khoa học kỹ thuật và công nghệ mới. Để phù hợp với sự phát triển đó, con người cần phải có tham vọng lớn, năng động, lạc quan, tin tưởng, dũng cảm sáng tạo. Nhưng không vì thế mà con người ngày nay xa rời với con người của Phật giáo: từ, bi, hỷ, xả. Con người có tham vọng nhưng không tham nhũng cái do người khác làm ra, không vun vén lợi ích cho riêng mình biết kết hợp những phẩm chất đạo đức của con người Phật giáo với tư cách, trí tuệ của con người hiện đại là chúng ta tự hoàn thiện mình, cùng nhau xây dựng một xã hội văn minh, hạnh phúc.

Qua những vấn đề cơ bản trong Phật học, ta thấy Đạo Phật là một hệ thống tư tưởng thống nhất quy tụ về Nhất Thừa Phật pháp. Tất cả giáo lý Phật là nền tảng cho việc xây dựng con người vị tha và coi cuộc sống vị tha là lý tưởng cao quý nhất của đời mình, tiến tới con người vị tha và coi cuộc sống vị tha là lý tưởng cao quý nhất của đời mình, tiến tới con người từ, bi, hỷ, xả, con người Phật. Vì thế vấn đề nhân vị trong đạo Phật là một vấn đề quan trọng vì đạo Phật cho rằng con người là tất cả, con người quyết định số phận của mình, quyết định hình thái xã hội. Con người ác chỉ biết lợi mình hại người tạo ra một xã hội với áp bức bất công. Con người thiện, sống vị tha xây dựng một xã hội tiến bộ, lành mạnh.

Người học Phật, tu Phật hàng ngày phải sống với đạo, thực nghiệm đạo, không một phút nào xa lìa đạo. Trong mọi hoạt động của thân, khẩu, ý đều phải gắn liền với Đạo, thể hiện Đạo. Với cách sống như thế, người tu hành luôn là người dũng cảm có đủ nghị lực chiến thắng ngũ dục, chiến thắng những bất công áp bức.

Và một đặc điểm lớn nhất của đạo Phật là suốt đời, Phật không bao giờ tự nhận là người duy nhất đem lại sự giải thoát cho loài người. Phật nói: Con người ai ai cũng có Phật tính. Trước người đã có hằng hà sa số Phật.

Sự giải thoát không chỉ nhằm đấu tranh chống những áp bức về xã hội về kinh tế như lịch sử Phật giáo đã chứng minh mà sự giải thoát nhằm tiêu diệt tận gốc mọi đau khổ là tham lam và dục vọng. Việc giải phóng này là con người phải tự lực đảm nhiệm, không ai có thể làm thay được và mỗi người đều coi sự giải thoát là cứu cánh cuối cùng của cuộc đời.

Như vậy, đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao quý. Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm nhuần giáo lý Phật, con người vị tha, từ, bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội hoà bình, an lạc, công bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, còn tập thể.

Trái lại. con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo, độc ác thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã hội của những con người ấy sẽ là xã hội địa ngục, xã hội áp bức bóc lột.

(Sưu tầm)

Dạy Học Theo Phương Pháp Tích Cực Ung Dung Day Hoc Hh 11 Theo Pp Tich Cuc Doc

ỨNG DỤNG CNTT TRONG DẠY HỌC HÌNH HỌC 11

THEO PHƯƠNG PHÁP TÍCH CỰC

GVC – Thạc sỹ Nguyễn Văn Hà

I. Phương pháp dạy học tích cực đối với môn Toán

PPDH là những cách thức hoạt động và ứng xử của GV gây nên những hoạt động và giao lưu cần thiết của HS trong quá trình dạy học nhằm đạt được các mục đích dạy học.

+ PPDH có tính khoa học:

+ PPDH có tính chất khái quát:

Không phải mỗi cách thức hoạt động và ứng xử của GVcụ thể là một PPDH. Thực chất đây là sự khái quát hóa các hình ảnh về cách thức hoạt động và ứng xử của GV gây nên những hoạt động và giao lưu cần thiết của trò trong quá trình dạy học.

+ PPDH với các chức năng điều hành quá trình tổ chức dạy học:

. PPDH với truyền thụ tri thức mới : PPDH định nghĩa khái niệm, PPDH định l ý toán học, PPDH bài tập toán họ c

+ PPDH với cách truyền thông tin tới HS bằng hoạt động bên ngoài:

+ PPDH với tình huống điển hình trong quá trình dạy học:

+ PPDH với việc phát triển tư duy HS:

+ PPDH với các hình thức tổ chức dạy học:

PPDH tích cực được hiểu một cách ngắn gọn là PPDH hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.

Tính tích cực trong học tập thường được biểu hiện ở HS là chủ thể của quá trình nhận thức như: HS hăng hái trả lời các câu hỏi của GV, bổ sung các câu trả lời của bạn, thường nêu thắc mắc hay đề nghị GV giải thích những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng các kiến thức, kỹ năng đã học để nhận thức các vấn đề mới; tập trung chú ý vào các vấn đề đang học, kiên trì thực hiện các bài tập, không nản trước những khó khăn.

Tính tích cực học tập của HS thể hiện ở ba mức độ tư duy sau:

+ Sáng tạo: HS t ự mình tìm ra cách giải quyết vấn đề mới, độc đáo, hữu hiệu khác với cách giải quyết vấn đề đã có

+ Dạy học phải kích thích nhu cầu và hứng thú học tập của HS

Theo tâm lý học thì tư duy của con người chỉ tích cực khi họ có nhu cầu hứng thú với hoạt động đó. Nhà tâm lý học Xô Viết V.P Simonov đã mô tả tính tích cực hoạt động học tập của HS phụ thuộc vào mức độ hấp dẫn và lôi cuốn của nhiệm vụ học tập- nhu cầu là một hàm phụ thuộc vào hiệu số của kiến thức cần thiết và kiến thức đã có như sau: T = N(K CT – K ĐC ) (Trong đó T là mức độ tích cực của HS; N là nhu cầu nhận thức; K CT là kiến thức, kỹ năng cần thiết của HS; K ĐC là kiến thức, kỹ năng đã có của HS). Do đó, trong dạy học theo phương pháp tích cực GV cần thiết và trước tiên phải làm cho HS có nhu cầu học tập và bị cuốn hút vào nhiệm vụ học tập.

+ Dạy học thông qua các hoạt động học tập của HS

+ Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học

Phương pháp tự học là rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự chiếm lĩnh tri thức: biết tự lực phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong thực tiễn, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào những tìn h huống mới, từ đó sẽ tạo cho người học lòng ham học, ham hiểu biết. Do vậy, trong quá trình dạy học cần chú ý dạy cho người học phương pháp học, tạo ra sự chuyển biến từ việc học tập thụ động sang tự học chủ động.

+ Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác

Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức là hoạt động hợp tác trong nhóm nhỏ. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung.Trong hoạt động nhóm nhỏ sẽ không có hiện tượng ỷ lại, tính cách năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ, uốn ắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ.

+ Kết hợp sự đánh giá của GV với sự đánh giá của HS:

Trong dạy học, việc đánh giá HS là nhằm mục đích đánh giá thực trạng và điều chỉnh hoạt động của đồng thời của cả HS và GV

Trong phương pháp dạy học tích cực, GV phải hướng dẫn HS tự đánh giá kiến thức của mình để tự điều chỉnh cách học tập của mình và GV cũng phải tạo điều kiện để các HS tham gia vào việc đánh giá lẫn nhau. Hìn h thành cho HS biết t ự đánh giá đúng và điều chỉnh kịp thời các hoạt động học tập của mình đó chính là năng lực rất cần thiết cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường cần trang bị cho các HS.

. Mỗi câu hỏi phải có nội dung chính xác, phải gọn gàng, rõ ràng và không gây ra sự nhập nhằng khó hiểu cho HS

. Đối với một số các câu hỏi khó GV nên dự kiến câu trả lời và chuẩn bị câu hỏi phụ để có thể nhanh chóng trợ giúp HS khi cần thiết

– Sử dụng các câu hỏi gợi mở trong dạy học toán: GV nêu câu hỏi cho cả lớp suy nghĩ, sau đó gọi HS trả lời, rồi gọi HS khác nhận xét đánh giá, cuối cùng GV kết luận chính xác về câu hỏi đó

+ Phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề:

+ Phương pháp dạy học theo nhóm:

Kết luận: Đối với môn Toán, do đặc thù của môn học theo ý kiến chúng tôi nhận thấy tư tưởng cốt lõi, trọng tâm nhất của việc dạy học toán theo PPDH tích cực là: T ổ chức cho HS chủ động xây dựng định nghĩa khái niệm toán học, chủ động tìm đường lối chứng minh toán học .

II. Một số phần mềm thông dụng sử dụng trong dạy học hình học ở trường THPT

1. Microsoft PowerPoint:

Phần mềm PowerPoint là phần mềm trình diễn chuyên nghiệp, thuận tiện và đơn giản trong sử dụng. PowerPoint cho phép trình diễn với nhiều mục đích khác nhau: Báo cáo khoa học, bảo vệ luận văn, trình bày bài giảng, … thông qua việc tóm tắt trên các slide và tạo ra các hiệu ứng thích hợp với các tình huống dạy học toán . Trong dạy học hình học ở trường THPT chúng ta có thể trình diễn trên các slide : Hình ảnh thực tế khai thác được, hình vẽ tĩnh , các bước dựng hình, các bước phân tích chứng minh toán học, …

Khi l àm việc trên PowerPoint là làm việc trên các tệp trình diễn (các tệp *.ppt), mỗi tệp trình diễn bao gồm các Slide được sắp theo thứ tự, mỗi Slide chứa nội dung thông tin mà ta cần trình bày, nội dung trong một Slide có thể là văn bản (text), hình ảnh (picture, video), âm thanh (sound), bảng (table), biểu đồ, … mà ta sẽ gọi chung là các đối tượng (object). Mỗi đối tượng có thể được gán một hoặc nhiều hiệu ứng (animation) theo một thứ tự nhất định và PowerPoint sẽ giúp ta quản lý thứ tự hiệu ứng của các đối tượng này.

Thay đổi màu nền của Slide: Nháy chuột phải vào Slide chọn Background, cửa số Background xuất hiện cho phép ta chọn màu nền cho Slide với 3 lựa chọn: Apply to all (áp dụng cho tất cả các Slide), Apply (áp dụng cho Slide hiện tại) và Cancel (hủy tác vụ).

Lựa chọn tác vụ: Nháy trái chuột vào thanh Task Panel, menu tác vụ sẽ xuất hiện như trong hình, với các lựa chọn chính như sau:

Các thao tác soạn thảo, vẽ hình, chèn đối tượng, … trong PowerPoint tương tự như trong Word nên rất trực quan và quen thuộc, nếu người dùng đã làm quen với Word thì không có gì khó khăn khi thao tác trong PowerPoint.

Thế mạnh trình diễn của PowerPoint là các hiệu ứng, mỗi đối tượng trong một Slide có thể được gán một hoặc nhiều hiệu ứng và PowerPoint sẽ quản lý thứ tự các hiệu ứng của các đối tượng. Có hai cách cơ bản để tạo hiệu ứng cho đối tượng: Một là nháy phải chuột vào đối tượng muốn tạo hiệu ứng, một menu với các tùy chọn xuất hiện, chọn Custom Animation. Hai là nháy trái chuột vào thanh Task Panel, menu tác vụ sẽ xuất hiện, chọn Custom Animation.

Kết quả là trên thanh tác vụ sẽ xuất hiện menu Custom Animation. Khi đó, các đối tượng trong Slide, nếu đã có hiệu ứng, sẽ được gắn thêm một con số, đó là số thứ tự xuất hiện bởi hiệu ứng đã chọn. Với mỗi đối tượng, PowerPoint 2003 cung cấp 4 dạng hiệu ứng chính, đó là: Entrance (các kiểu xuất hiện trong Slide khi trình chiếu), Emphasis (các kiểu nhấn mạnh hay làm nổi bật đối tượng khi trình chiếu), Exit (các kiểu đi ra khỏi Slide khi trình chiếu) và Motion Paths (cho đối tượng di chuyển theo những đường đi nhất định trong khi trình chiếu).

Để gán hiệu ứng cho một đối tượng, ta nháy trái chuột vào đối tượng đó, rồi nháy trái chuột vào nút Add Effect và chọn một hiệu ứng phù hợp trong 4 dạng hiệu ứng: Entrance, Emphasis, Exit hoặc Motion Paths. Khi đó, đối tượng sẽ được gắn một số là số thứ tự của hiệu ứng và xuất hiện trong khung quản lý hiệu ứng. Với mỗi hiệu ứng, PowerPoint cung cấp một số tùy chọn, nháy trái chuột vào hình tam giác bên cạnh đối tượng trong khung quản lý hiệu ứng, menu sau sẽ xuất hiện:

Một điểm mạnh nữa của PowerPoint là khả năng liên kết rất linh hoạt từ các đối tượng trong Slide. Để tạo liên kết, nháy phải chuột vào đối tượng (hoặc bôi đen đoạn văn bản muốn liên kết rồi nháy phải chuột), một menu đổ xuống xuất hiện với các tùy chọn, chọn Hyperlink, cửa sổ Insert Hyperlink xuất hiện:

Trong hộp thoại “Link to”, chọn “Existing File or Web Page” nếu muốn liên kết tới một file hoặc trang web đã có, khi đó xuất hiện hộp thoại Look in để mở thư mục chứa file đó, nháy trái chuột vào file cần liên kết và ấn nút OK. Chọn “Place in This Document” để liên kết tới một Slide trong chính file trình diễn đang mở, chọn “Create New Document” để tạo một file văn bản mới và liến kết tới file đó, chọn “E-mail Address” để liên kết tới một địa chỉ e-mail.

PowerPoint còn cung cấp các nút lệnh để thực hiện các liên kết, để tạo nút lệnh, ta thực hiện như sau:

Sau khi hoàn thành thiết kế một file trình diễn, ta có sẽ thực hiện việc trình chiếu kết quả. Có nhiều cách để thực hiện trình chiếu, hai trong số các cách là ấn phím F5 trên bàn phím để trình chiếu từ Slide đầu hoặc ấn tổ hợp phím Shift + F5 để trình chiếu từ Slide hiện thời.

2. Cabri (Cabri Geometry II Plus và Cabri 3D):

Thanh menu (menu bar) chứa các lệnh ứng dụng giống như các phần mềm thông thường.

Thanh trạng thái (Status bar) hiển thị công cụ hiện hành.

Thanh công cụ (Tool bar) chứa các công cụ để tạo hay chỉnh sửa hình vẽ, nó chứa các hộp công cụ, mỗi hộp công cụ lại chứa các công cụ thể hiện bởi những biểu tượng. Công cụ hiện hành được biểu thị bằng một nút nhấn nền trắng, nhấp chuột lên nút sẽ kích hoạ t công cụ tương ứng. Nhấp và giữ chuột trên nút sẽ mở hộp công cụ, kéo rê chuột tới công cụ cần chọn và nhả chuột để chọn công cụ đó.

Hộp công cụ Lines cho phép vẽ đường thẳng (Line), đoạn thẳng (Segment), tia (Ray), véctơ (Vector), tam giác (Triangle), đa giác (Polygon) và đa giác đều (Regular Polygon):

Hộp công cụ Constructions:

Hộp công cụ Constructions gồm các công cụ: dựng đường vuông góc (Perpendicular Line), dựng đường song song (Parallel Line), dựng trung điểm đoạn thẳng (Midpoint), dựng đường trung trực của đoạn thẳng (Perpendicular Bisector), dựng đường phân giác của góc (Angle Bisector), dựng véctơ tổng (Vector Sum), dựng tiếp tuyến (Compass), …

Hộp công cụ Transformations gồm phép đối xứng trục (Reflection), phép đối xứng tâm (Symmetry), phép tịnh tiến (Translation), phép quay (Rotation), phép vị tự (Dilation) và phép nghịch đảo (Inverse):

Hộp công cụ Properties gồm các công cụ xác định các tính chất: thẳng hàng (Collinear?), song song (Parallel?), vuông góc (Perpendicular?), bằng nhau (Equidistant?), thuộc tập hợp (Member?):

Hộp công cụ Measurement:

Hộp công cụ Measurement cho phép các định khoảng cách, đo độ dài (Distance or Length), đo diện tích (Area), đo góc (Angle), …

Hộp công cụ Text and symbols:

Cabri Geometry cung cấp cho ta tất cả các công cụ dựng hình trong hình học phẳng, để sử dụng một công cụ nào đó, ta phải kích hoạt nó trước rồi mới thực hiện các thao tác dựng hình.

Các công cụ dựng hình dược hiển thị bằng các biểu tượng (icon) rất trực quan và theo một quy tắc chung như sau: Đối tượng được dựng (kết quả của việc thực hiện công cụ dựng hình) sẽ có màu đỏ (tạm gọi là “kết luận”), các dữ kiện cần có để dựng hình sẽ có màu xanh đậm và xanh dương (tạm gọi là “giả thiết”). Như vậy, nhìn vào biểu tượng của các công cụ dựng hình, ta biết được để có “kết luận” thì cần các “giả thiết” gì.

Chẳng hạn, công cụ dựng tam giác cho ta thấy để dựng được tam giác (mầu đỏ) thì cần 3 đỉnh (màu xanh) hay để xác định ảnh của một điểm qua phép đối xứng trục , ta lần lượt chọn điểm (màu xanh đậm) rồi chọn đường (màu xanh dương).

Ta quy ước [Tên hộp công cụ]Tên công cụ gọi tên công cụ, ví dụ để gọi tên công cụ dựng tam giác trong hộp công cụ Lines ta viết: [Lines]Triangle.

Cabri Geometry l à phần mềm hình học chuyên nghiệp, cho giáo viên rất nhiều cơ hội để tổ chức hoạt động học tập của học sinh theo định hướng đổi mới PPDH, ở đó người học được gợi động cơ, được hướng đích để hoạt động một cách tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo trong học tập, người học trở thành người khám phá tri thức và là chủ thể của quá trình dạy học.

2) Cho ® iÓm A cè ®Þnh trªn ®­êng trßn (O, R) cho tr­íc. H ai ®iÓm B, C chuyÓn ®éng trªn ®­êng trßn kh”ng trïng víi B, C sao cho ®é dµi d©y BC = a kh”ng ®æi . Gäi M lµ trung ®iÓm cña d©y BC vµ H lµ trùc t©m cña ∆ ABC . Chøng minh r”ng HM lu”n ®I qua mét ®iÓm cè ®Þnh ?

III. Phương pháp sử dụng tư liệu thông tin trong dạy học hình học ở THPT

III. Quy trình thực hiện ứng dụng CNTT vào dạy học hình học ở trường THPT

Bước 1: Xác định mục đích trọng tâm của tiết dạy học toán

Xác định mục đích trọng tâm về kiến thức, kỹ năng toán học mà HS cần đạt được sau tiết học.

Bước 2: Thiết kế đề cương bài giảng theo định hướng tích cực hóa các hoạt động học tập của HS

i) Thường xuyên tạo ra hứng thú, nhu cầu học tập toán cho HS trong các tình huống điển hình dạy học toán.

ii) Tổ chức các hoạt động để cho HS học cách tìm ra chân lý toán học: HS trực tiếp tham gia vào việc xây dựng định nghĩa khái niệm, trực tiếp tham gia vào việc tìm đường lối chứng minh toán học

iii) Tăng cường những hoạt động củng cố sau khi học kiến thức toán học mới

iv) Tổng kết bài học: Hệ thống hóa các kiến thức, kỹ năng đã học và đặc biệt chỉ rõ phương pháp chung vận dụng kiến thức, kỹ năng vào giải toán, cũng như giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn.

Bước 3: Ứng dụng CNTT hỗ trợ quá trình dạy học hình học ở THPT theo phương pháp tích cực

i) Hoạt động gợi động cơ, tạo tiền đề xuất phát

Ứng dụng CNTT trong việc đổi mới PPDH hình học ở trường THPT theo phương pháp tích cực là hướng tốt và có hiệu quả rõ rệt trong công cuộc đổi mới PPDH hình học hiện nay. Sử dụng CNTT dễ gây ấn tượng, góp phần tạo ra hứng thú cao cho HS, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để GV có thể tổ chức thành công nhiều hoạt động học tập trên lớp học. Để đạt hiệu quả cao GV cần phải có nhận thức đúng đắn vấn đề sau:

+ Tư tưởng cót lõi cụ thể về PPDH tích cực đối với môn Toán ở THPT.

+ Phương pháp sử dụng các dạng tư liệu thông tin trong dạy học toán như thế nào sao cho hiệu quả?

+ Vận dụng các phương pháp đó vào thiết kế, xây dựng tập tư liệu thông tin cùng với đề cương bài giảng sao cho việc tổ chức dạy học trên lớp có hiệu quả nhất để vừa kích thích hứng thú của HS và vừa phát triển tư duy toán học của HS trong học tập toán.

[1] Các sách hướng dẫn sử dụng phần mềm ứng dụng PowerPoint, Cabri, …