Top 10 # Xem Nhiều Nhất Xác Định Phương Pháp Tính Thuế Giá Trị Gia Tăng Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Cuocthitainang2010.com

Phương Pháp Xác Định Giá Tính Thuế Giá Trị Gia Tăng

– Đối với hàng hóa, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra là giá bán chưa có thuế GTGT. Đối với hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là giá bán đã có thuế tiêu thụ đặc biệt nhưng chưa có thuế GTGT.

– Đối với hàng hóa chịu thuế bảo vệ môi trường là giá bán đã có thuế bảo vệ môi trường nhưng chưa có thuế giá trị gia tăng; đối với hàng hóa vừa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, vừa chịu thuế bảo vệ môi trường là giá bán đã có thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo vệ môi trường nhưng chưa có thuế giá trị gia tăng.

2. Giá tính thuế hàng nhập khẩu:

– Là giá nhập tại cửa khẩu cộng (+) với thuế nhập khẩu (nếu có), cộng (+) với thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có), cộng (+) với thuế bảo vệ môi trường (nếu có). Giá nhập tại cửa khẩu được xác định theo quy định về giá tính thuế hàng nhập khẩu.

Trường hợp hàng hóa nhập khẩu được miễn, giảm thuế nhập khẩu thì giá tính thuế GTGT là giá nhập khẩu cộng (+) với thuế nhập khẩu xác định theo mức thuế phải nộp sau khi đã được miễn, giảm.

– Đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ (kể cả mua ngoài hoặc do cơ sở kinh doanh tự sản xuất) dùng để trao đổi, biếu, tặng, cho, trả thay lương, là giá tính thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh các hoạt động này.

Ví dụ 22: Đơn vị A sản xuất quạt điện, dùng 50 sản phẩm quạt để trao đổi với cơ sở B lấy sắt thép, giá bán (chưa có thuế) là 400.000 đồng/chiếc. Giá tính thuế GTGT là 50 x 400.000 đồng = 20.000.000 đồng.

– Riêng biếu, tặng giấy mời (trên giấy mời ghi rõ không thu tiền) xem các cuộc biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang, thi người đẹp và người mẫu, thi đấu thể thao do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của pháp luật thì giá tính thuế được xác định bằng không (0). Cơ sở tổ chức biểu diễn nghệ thuật tự xác định và tự chịu trách nhiệm về số lượng giấy mời, danh sách tổ chức, cá nhân mà cơ sở mang biếu, tặng giấy mời trước khi diễn ra chương trình biểu diễn, thi đấu thể thao. Trường hợp cơ sở có hành vi gian lận vẫn thu tiền đối với giấy mời thì bị xử lý theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.

– Đối với sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cơ sở kinh doanh xuất hoặc cung ứng sử dụng cho tiêu dùng phục vụ hoạt động kinh doanh (tiêu dùng nội bộ), là giá tính thuế GTGT của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh việc tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ. Cơ sở kinh doanh được kê khai, khấu trừ đối với hoá đơn GTGT xuất tiêu dùng nội bộ dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT.

Hàng hoá luân chuyển nội bộ như xuất hàng hoá để chuyển kho nội bộ, xuất vật tư, bán thành phẩm để tiếp tục quá trình sản xuất trong một cơ sở sản xuất, kinh doanh không phải tính, nộp thuế GTGT.

– Trường hợp cơ sở kinh doanh tự sản xuất, xây dựng tài sản cố định (tài sản cố định tự làm) để phục vụ sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT thì khi hoàn thành, nghiệm thu, bàn giao, cơ sở kinh doanh không phải lập hoá đơn. Thuế GTGT đầu vào hình thành nên tài sản cố định tự làm được kê khai, khấu trừ theo quy định.

– Đối với sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cơ sở kinh doanh xuất để dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT là giá bán của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh việc tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ.

Đơn vị A là doanh nghiệp sản xuất quạt điện, dùng 50 sản phẩm quạt lắp vào các phân xưởng sản xuất, giá bán (chưa có thuế GTGT) của loại quạt này là 1.000.000 đồng/chiếc, thuế suất thuế GTGT là 10%. Giá tính thuế GTGT là 1.000.000 x 50 = 50.000.000 đồng.

Đơn vị A lập hoá đơn GTGT ghi giá tính thuế GTGT là 50.000.000 đồng, thuế GTGT là 5.000.000 đồng. Đơn vị A được kê khai, khấu trừ thuế đối với hoá đơn xuất tiêu dùng nội bộ.

Công ty Y là doanh nghiệp sản xuất nước uống đóng chai, giá chưa có thuế GTGT 1 chai nước đóng chai trên thị trường là 4.000 đồng. Công ty Y xuất ra 300 chai nước đóng chai phục vụ cho chuyến tham quan của con em Công ty thì Công ty Y phải kê khai, tính thuế GTGT đối với 300 chai nước xuất dùng không phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh nêu trên với giá tính thuế là 4.000 x 300 = 1.200.000 đồng.

5. Giá tính thuế hàng khuyến mãi:

– Đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại theo quy định của pháp luật về thương mại, giá tính thuế được xác định bằng không (0); trường hợp hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại nhưng không thực hiện theo quy định của pháp luật về thương mại thì phải kê khai, tính nộp thuế như hàng hóa, dịch vụ dùng để tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng, cho.

Một số hình thức khuyến mại cụ thể được thực hiện như sau:

a) Đối với hình thức khuyến mại đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền, tặng hàng hoá cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền thì giá tính thuế đối với hàng mẫu, dịch vụ mẫu được xác định bằng 0.

Công ty TNHH P sản xuất nước ngọt có ga, năm 2014 Công ty có thực hiện đợt khuyến mại vào tháng 5/2014 và tháng 12/2014 theo hình thức mua 10 sản phẩm tặng 1 sản phẩm. Chương trình khuyến mại vào tháng 5/2014 được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục khuyến mại được thực hiện theo quy định của pháp luật về thương mại. Theo đó, đối với số sản phẩm tặng kèm khi mua sản phẩm trong tháng 5/2014, Công ty TNHH P xác định giá tính thuế bằng không (0).

Trường hợp chương trình khuyến mại vào tháng 12/2014 không được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục khuyến mại theo quy định của pháp luật về thương mại, Công ty TNHH P phải kê khai, tính thuế GTGT đối với số sản phẩm tặng kèm khi mua sản phẩm trong tháng 12/2014.

Công ty N hoạt động trong lĩnh vực viễn thông, chuyên bán các loại thẻ cào di động. Công ty thực hiện đăng ký khuyến mại theo quy định của pháp luật về thương mại dưới hình thức bán hàng thấp hơn giá bán trước đó cho thời gian từ ngày 1/4/2014 đến hết ngày 20/4/2014, theo đó, giá bán một thẻ cào mệnh giá là 100.000 đồng (đã bao gồm thuế GTGT) trong thời gian khuyến mại được bán với giá 90.000 đồng.

Giá tính thuế GTGT đối với một thẻ cào mệnh giá 100.000 đồng trong thời gian khuyến mại được tính như sau: 90.000/(1+10%)

Trường hợp cơ sở kinh doanh áp dụng hình thức chiết khấu thương mại dành cho khách hàng (nếu có) thì giá tính thuế GTGT là giá bán đã chiết khấu thương mại dành cho khách hàng. Trường hợp việc chiết khấu thương mại căn cứ vào số lượng, doanh số hàng hoá, dịch vụ thì số tiền chiết khấu của hàng hoá đã bán được tính điều chỉnh trên hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ của lần mua cuối cùng hoặc kỳ tiếp sau. Trường hợp số tiền chiết khấu được lập khi kết thúc chương trình (kỳ) chiết khấu hàng bán thì được lập hoá đơn điều chỉnh kèm bảng kê các số hoá đơn cần điều chỉnh, số tiền, tiền thuế điều chỉnh. Căn cứ vào hoá đơn điều chỉnh, bên bán và bên mua kê khai điều chỉnh doanh thu mua, bán, thuế đầu ra, đầu vào.

7. Giá tính thuế hoạt động cho thuê tài sản:

– Đối với hoạt động cho thuê tài sản như cho thuê nhà, văn phòng, xưởng, kho tàng, bến, bãi, phương tiện vận chuyển, máy móc, thiết bị là số tiền cho thuê chưa có thuế GTGT.

– Trường hợp cho thuê theo hình thức trả tiền thuê từng kỳ hoặc trả trước tiền thuê cho một thời hạn thuê thì giá tính thuế là tiền cho thuê trả từng kỳ hoặc trả trước cho thời hạn thuê chưa có thuế GTGT.

Giá cho thuê tài sản do các bên thỏa thuận được xác định theo hợp đồng. Trường hợp pháp luật có quy định về khung giá thuê thì giá thuê được xác định trong phạm vi khung giá quy định.

– Đối với hàng hóa bán theo phương thức trả góp, trả chậm là giá tính theo giá bán trả một lần chưa có thuế GTGT của hàng hoá đó, không bao gồm khoản lãi trả góp, lãi trả chậm.

Công ty kinh doanh xe máy bán xe X loại 100 cc, giá bán trả góp chưa có thuế GTGT là 25,5 triệu đồng/chiếc (trong đó giá bán xe là 25 triệu đồng, lãi trả góp là 0,5 triệu đồng) thì giá tính thuế GTGT là 25 triệu đồng.

– Đối với gia công hàng hóa là giá gia công theo hợp đồng gia công chưa có thuế GTGT, bao gồm cả tiền công, chi phí về nhiên liệu, động lực, vật liệu phụ và chi phí khác phục vụ cho việc gia công hàng hoá.

– Đối với xây dựng, lắp đặt, là giá trị công trình, hạng mục công trình hay phần công việc thực hiện bàn giao chưa có thuế GTGT.

a) Trường hợp xây dựng, lắp đặt có bao thầu nguyên vật liệu là giá xây dựng, lắp đặt bao gồm cả giá trị nguyên vật liệu chưa có thuế GTGT.

Công ty xây dựng B nhận thầu xây dựng công trình bao gồm cả giá trị nguyên vật liệu, tổng giá trị thanh toán chưa có thuế GTGT là 1.500 triệu đồng, trong đó giá trị vật tư xây dựng chưa có thuế GTGT là 1.000 triệu đồng thì giá tính thuế GTGT là 1.500 triệu đồng.

b) Trường hợp xây dựng, lắp đặt không bao thầu nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị, giá tính thuế là giá trị xây dựng, lắp đặt không bao gồm giá trị nguyên vật liệu và máy móc, thiết bị chưa có thuế GTGT.

Công ty xây dựng B nhận thầu xây dựng công trình không bao thầu giá trị vật tư xây dựng, tổng giá trị công trình chưa có thuế GTGT là 1.500 triệu đồng, giá trị nguyên liệu, vật tư xây dựng do chủ đầu tư A cung cấp chưa có thuế GTGT là 1.000 triệu đồng thì giá tính thuế GTGT trong trường hợp này là 500 triệu đồng (1.500 triệu đồng – 1.000 triệu đồng).

Công ty dệt X (gọi là bên A) thuê Công ty xây dựng Y (gọi là bên B) thực hiện xây dựng lắp đặt mở rộng xưởng sản xuất.

– Giá trị xây lắp: 80 tỷ đồng

– Giá trị thiết bị bên B cung cấp và lắp đặt: 120 tỷ đồng

+ Nhận bàn giao nhà xưởng, hạch toán tăng giá trị TSCĐ để tính khấu hao là 200 tỷ đồng (giá trị không có thuế GTGT)

11. Giá tính thuế đối với dịch vụ du lịch:

– Trường hợp giá trọn gói bao gồm cả các khoản chi vé máy bay vận chuyển khách du lịch từ nước ngoài vào Việt Nam, từ Việt Nam đi nước ngoài, các chi phí ăn, nghỉ, thăm quan và một số khoản chi ở nước ngoài khác (nếu có chứng từ hợp pháp) thì các khoản thu của khách hàng để chi cho các khoản trên được tính giảm trừ trong giá (doanh thu) tính thuế GTGT. Thuế GTGT đầu vào phục vụ hoạt động du lịch trọn gói được kê khai, khấu trừ toàn bộ theo quy định.

Công ty Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện hợp đồng du lịch với Thái Lan theo hình thức trọn gói 50 khách du lịch trong 05 ngày tại Việt Nam với tổng số tiền thanh toán là 32.000 USD. Phía Việt Nam phải lo chi phí toàn bộ vé máy bay, ăn, ở, thăm quan theo chương trình thoả thuận; trong đó riêng tiền vé máy bay đi từ Thái Lan sang Việt Nam và ngược lại hết 10.000 USD. Tỷ giá 1USD = 20.000 đồng Việt Nam. Giá tính thuế GTGT theo hợp đồng này được xác định như sau:

( 32.000 USD – 10.000 USD) x 20.000 đồng = 440.000.000 đồng

+ Giá tính thuế GTGT là: 440.000.000/(1+10%)=400.000.000 đồng

Công ty Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh được kê khai khấu trừ toàn bộ thuế GTGT đầu vào phục vụ hoạt động du lịch chịu thuế GTGT.

Quy Định Về Phương Pháp Tính Thuế Giá Trị Gia Tăng

Thuế giá trị gia tăng được tính chung vào hàng hóa, dịch vụ. Chủ thể kinh doanh hàng hóa, dịch vụ sẽ kê khai và nộp thuế. Vậy, tính thuế giá trị gia tăng như thế nào? Quy định về phương pháp tính thuế giá trị gia tăng như thế nào?

Thuế giá trị gia tăng được căn cứ vào giá tính thuế và thuế suất.

Giá tính thuế là giá bán hàng hóa dịch vụ chưa có thuế GTGT, được xác định bằng đồng Việt Nam

: mức thuế suất có thể là 0%, 5% hoặc 10%. Căn cứ để tính thuế suất dựa vào điều 8 của Luật thuế Giá trị gia tăng.

Gồm 2 phương pháp:

Phương pháp khấu trừ thuế GTGT.

Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT.

2.1. Phương pháp khấu trừ thuế GTGT

Cơ sở kinh doanh thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật về kế toán, hoá đơn, chứng từ và đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế; trừ các đối tượng áp dụng tính thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT.

2.1.2. Tính số thuế GTGT phải nộp

Khi lập hoá đơn bán hàng hóa, dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán chưa có thuế, thuế GTGT và tổng số tiền người mua phải thanh toán. Trường hợp hoá đơn chỉ ghi giá thanh toán (trừ trường hợp được phép dùng chứng từ đặc thù), không ghi giá chưa có thuế và thuế GTGT thì thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra phải tính trên giá thanh toán ghi trên hoá đơn, chứng từ.

Ví dụ: Doanh nghiệp bán sắt, thép, giá bán chưa có thuế GTGT đối với sắt F6 là: 11.000.000 đồng/tấn; thuế GTGT 10% bằng 1.100.000 đồng/tấn, nhưng khi bán có một số hoá đơn doanh nghiệp chỉ ghi giá bán là 12.100.000 đồng/tấn thì thuế GTGT tính trên doanh số bán được xác định bằng: 12.100.000 đồng/tấn x 10% = 1.210.000 đồng/tấn thay vì tính trên giá chưa có thuế là 11.000.000 đồng/tấn.

Cơ sở kinh doanh phải chấp hành chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật về kế toán, hoá đơn, chứng từ. Trường hợp hoá đơn ghi sai mức thuế suất thuế giá trị gia tăng mà cơ sở kinh doanh chưa tự điều chỉnh, cơ quan thuế kiểm tra, phát hiện thì xử lý như sau:

Đối với cơ sở kinh doanh bán hàng hoá, dịch vụ: Nếu thuế suất thuế GTGT ghi trên hoá đơn cao hơn thuế suất đã được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật về thuế GTGT thì phải kê khai, nộp thuế GTGT theo thuế suất đã ghi trên hoá đơn. Nếu thuế suất thuế GTGT ghi trên hoá đơn thấp hơn thuế suất đã được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật về thuế GTGT thì phải kê khai, nộp thuế GTGT theo thuế suất thuế GTGT quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật về thuế GTGT.

Thuế GTGT đầu vào bằng (=) tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hóa, dịch vụ (bao gồm cả tài sản cố định) dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT cộng (+) tổng số thuế GTGT ghi trên chứng từ nộp thuế của hàng hoá nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía nước ngoài theo hướng dẫn của Bộ Tài chính áp dụng đối với các tổ chức nước ngoài không có tư cách pháp nhân Việt Nam và cá nhân nước ngoài kinh doanh hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam.

Trường hợp hàng hóa, dịch vụ mua vào là loại được dùng chứng từ đặc thù ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT thì thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ đó được xác định như sau:

Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ được xác định theo Nguyên tắc khấu trừ thuế GTGT

Trường hợp hoá đơn ghi sai mức thuế suất thuế giá trị gia tăng mà các cơ sở kinh doanh chưa tự điều chỉnh, cơ quan thuế kiểm tra, phát hiện thì xử lý như sau:

Đối với cơ sở kinh doanh mua hàng hoá, dịch vụ:

Nếu thuế suất thuế GTGT ghi trên hoá đơn mua vào cao hơn thuế suất đã được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật về thuế GTGT thì khấu trừ thuế đầu vào theo thuế suất quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật về thuế GTGT; Trường hợp xác định được bên bán đã kê khai, nộp thuế theo đúng thuế suất ghi trên hoá đơn thì được khấu trừ thuế đầu vào theo thuế suất ghi trên hoá đơn nhưng phải có xác nhận của cơ quan thuế trực tiếp quản lý người bán;

Nếu thuế suất thuế GTGT ghi trên hoá đơn thấp hơn thuế suất quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật về thuế GTGT thì khấu trừ thuế đầu vào theo thuế suất ghi trên hoá đơn.

2.2. Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT

Cá nhân, hộ kinh doanh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật.

Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh không theo Luật Đầu tư và các tổ chức khác (bao gồm cả các tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức sự nghiệp và các tổ chức khác) không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật, trừ các tổ chức, cá nhân nước ngoài cung cấp hàng hoá, dịch vụ để tiến hành hoạt động tìm kiếm, thăm dò, phát triển và khai thác dầu khí.

Hoạt động kinh doanh mua bán, vàng, bạc, đá quý.

Đối với các tổ chức, cá nhân nước ngoài cung cấp hàng hoá, dịch vụ để tiến hành hoạt động tìm kiếm thăm dò, phát triển và khai thác mỏ dầu, khí đốt, bên Việt Nam chịu trách nhiệm khấu trừ và nộp thay theo tỷ lệ do Bộ Tài chính quy định. Trường hợp tổ chức, cá nhân nước ngoài đăng ký, khai, nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thì số thuế đã nộp theo tỷ lệ do Bộ Tài chính được trừ vào số thuế phải nộp.

Trường hợp cơ sở kinh doanh vừa có hoạt động kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, vừa có hoạt động chế tác sản phẩm vàng, bạc, đá quý thì áp dụng tính thuế đối với các hoạt động này theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng.

Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra là giá thực tế bán ghi trên hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ, bao gồm cả thuế GTGT và các khoản phụ thu, phí thu thêm mà bên bán được hưởng, không phân biệt đã thu tiền hay chưa thu được tiền.

Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào được xác định bằng giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào hoặc nhập khẩu, đã có thuế GTGT dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT bán ra tương ứng.

Giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế bán ra được xác định như sau:

Đối với hoạt động phân phối, cung cấp hàng hoá: mức thuế suất 1%

Dịch vụ, xây dựng không bao thầu nguyên vật liệu: mức thuế suất 5%

Sản xuất, vận tải, dịch vụ có gắn với hàng hoá, xây dựng có bao thầu nguyên vật liệu: mức thuế suất 3%

Hoạt động kinh doanh khác: mức thuế suất 2%

Thuế suất áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ

Một số loại hàng hóa, dịch vụ có mức thuế suất như sau:

Quy Định Của Luật Thuế Gtgt Về Hai Phương Pháp Tính Thuế Giá Trị Gia Tăng

Thuế giá trị gia tăng (GTGT) là loại thuế tiêu dùng nhằm động viên một bộ phận thu nhập của người chịu thuế đã sử dụng để mua hàng hóa, nhận dịch vụ. Thuế GTGT có ý nghĩa quan trọng trong pháp luật thuế nói riêng và pháp luật kinh tế của đất nước nói chung. Qua bài viết này Luật Quang Huy sẽ đi sâu phân tích và tìm hiểu vấn đề này:quy định luật thuế GTGT về hai phương pháp tính thuế giá trị gia tăng

Cơ sở pháp lý

Giáo trình Luật Thuế Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công An Nhân Dân, 2017.

Luật Thuế Giá trị gia tăng năm 2008 (Sửa đổi bổ sung năm 2016) – NXB Lao Động.

Luận văn áp dụng thuế giá trị gia tăng và giải pháp

Khái quát về thuế giá trị gia tăng

Khái niệm Thuế giá trị gia tăng

Thuế giá trị gia tăng (còn gọi là VAT – từ viết tắt của Value Added Tax) được khai sinh từ nước Pháp và được áp dụng lần đầu từ ngày 10/4/195. Kể từ đó, thuế giá trị gia tăng được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tính đến nay đã có 130 quốc gia áp dụng thuế giá trị gia tăng.

Ở nước ta, để thay thế cho Luật thuế doanh thu, Luật thuế giá trị gia tăng được thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999. Trải qua nhiều lần sửa đổi và bổ sung, hiện nay, Luật thuế giá trị gia tăng 2008 (được sửa đổi, bổ sung 6/4/2016) đã quy định khá chi tiết và cụ thể về việc thu thuế này.

Theo quy định tại Điều 2 Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008: “Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”.

Thuế GTGT được nộp vào Ngân sách Nhà nước theo mức độ tiêu thụ và thông qua giá cả của hàng hóa dịch vụ, là loại thuế gián thu. Tính chất gián thu thể hiện ở chỗ người nộp thuế và người chịu thuế không đồng nhất với nhau. Ưu điểm của thuế gián thu là hạn chế được sự phản ứng về thuế từ người gánh chịu thuế, nhưng nhược điểm của nó là không tạo ra sự bình đẳng về điều tiết thu nhập của những đối tượng có thu nhập chênh lệch. Thuế GTGT khác với thuế trên doanh số bán hàng ở chỗ nó được áp dụng trên mọi lĩnh vực kinh doanh như là một phần của đơn giá mỗi mặt hàng bán ra phải chiu thuế mà người ta đã thực hiện, nhưng ngược lại người ta lại được hoàn thuế GTGT đối với các mặt hàng đã mua của mình, vì thế thuế GTGT được áp dụng đối với phần giá trị thêm vào (gia tăng) cho sản phẩm tại mỗi công đoạn sản xuất.

Đặc điểm của Thuế giá trị gia tăng

Thuế GTGT có nhiều điểm tương đồng với các loại thuế đánh vào hàng hóa, dịch vụ khác (như thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu) nhưng có thể nhận diện thông qua các đặc điểm sau:

Thứ nhất, Thuế GTGT có đối tượng chịu thuế rất rộng, đến tất cả đối tượng trong xã hội. Việc đánh thuế đối với mọi đối tượng trên phạm vi lãnh thổ thể hiện rõ nét sự công bằng của thuế đồng thời thể hiện thái độ của Nhà nước đối với các loại tiêu dùng trong xã hội.

Thứ hai, thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ. Việc đánh thuế chỉ trên phần giá trị tăng thêm mà không phải đối với toàn bộ giá trị hàng hóa dịch vụ làm cho số thuế GTGT áp dụng trong mỗi khâu của quá trình lưu thông không gây ra những đột biến về giá cả cho người tiêu dùng. Đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt thuế GTGT với những loại thuế gián thu khác.

Thứ ba, nếu dựa trên giá mua cuối cùng của hàng hóa dịch vụ, số thuế GTGT phải nộp không thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác nhau. Điều này thể hiện tính ưu việt của Thuế GTGT so với thuế hàng hoá, dịch vụ thông thường (thuế doanh thu) mà Việt Nam áp dụng trước đây.

Quy định của pháp luật về hai phương pháp tính thuế giá trị gia tăng và liên hệ thực tiễn

Điều 9, Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008 (sửa đổi bổ sung năm 2016) đã quy định về các phương pháp tính thuế GTGT như sau: ” Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng gồm phương pháp khấu trừ thuế giá trị gia tăng và phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng”.

Phương pháp khấu trừ thuế

Cơ sở pháp lý

“Điều 10. Phương pháp khấu trừ thuế Phương pháp khấu trừ thuế giá trị gia tăng được quy định như sau: a) Số thuế giá trị gia tăng phải nộp theo phương pháp khấu trừ thuế bằng số thuế giá trị gia tăng đầu ra trừ số thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ; b) Số thuế giá trị gia tăng đầu ra bằng tổng số thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ bán ra ghi trên hoá đơn giá trị gia tăng Thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ bán ra ghi trên hoá đơn giá trị gia tăng bằng giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế bán ra nhân với thuế suất thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ đó. Trường hợp sử dụng chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế giá trị gia tăng thì thuế giá trị gia tăng đầu ra được xác định bằng giá thanh toán trừ giá tính thuế giá trị gia tăng xác định theo quy định tại điểm k khoản 1 điều 7 của Luật này; c) Số thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ bằng tổng số thuế giá trị gia tăng ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng mua hàng hóa, dịch vụ, chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng của hàng hóa nhập khẩu và đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 12 của Luật này. Phương pháp khấu trừ thuế áp dụng đối với cơ sở kinh doanh thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật về kế toán, hoá đơn, chứng từ bao gồm: a) Cơ sở kinh doanh có doanh thu hàng năm từ bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ từ một tỷ đồng trở lên, trừ hộ, cá nhân kinh doanh;b)Cơ sở kinh doanh đăng ký tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ thuế, trừ hộ, cá nhân kinh doanh.

Phân tích

Theo khoản 1, điều 10 Luật này, nội dung cơ bản của phương pháp khấu trừ thuế là số thuế GTGT phải nộp được tính trên cơ sở số thuế GTGT đầu ra trừ đi số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ.

Công thức tính:

Điểm cần đặc biệt lưu ý, đối với phương pháp khấu trừ thuế, số thuế được xác định một cách trực tiếp là hiệu số thuế của các khâu trong quá trình sản xuất lưu thông mà không phải phần giá trị gia tăng được xác định trực tiếp qua các khâu.

-Thuế GTGT đầu ra là số thuế xuất hiện ở khâu bán ra, chủ thể nộp thuế đã xác định và tính trong giá bán cho người nhận hàng hoá dịch vụ. Luật thuế GTGT 2008 (sửa đổi bổ sung 2016) quy định:

Giá tính thuế là giá bán chưa có thuế giá trị gia tăng theo quy định của pháp luật.

Thuế suất được quy định rõ cho từng ngành nghề kinh doanh, từng chủng loại hàng hóa dịch vụ

Thuế giá trị gia tăng ở khâu bán ra được xác định trên chứng từ hóa đơn hợp lệ của chủ thể nộp thuế. Pháp luật cũng quy định chặt chẽ trường hợp chứng từ không phản ánh số thuế giá trị gia tăng hoặc chỉ ghi nhận giá thanh toán của hàng hóa dịch vụ.

Nếu chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT:

Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ là số thuế xuất hiện ở khâu mua vào, được tính trong tổng giá mà chủ thể nộp thuế đã trả để nhận được hàng hoá dịch vụ.

Thuế GTGT đầu vào = Tổng số thuế GTGT ghi trên hóa đơn GTGT mua hàng hóa, dịch vụ, chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hóa nhập khẩu.

Điều kiện khấu trừ thuế được quy định tại Điều 12 Luật Thuế giá trị gia tăng 2008( sửa đổi, bổ sung 2016).

Thứ nhất, đối với tài sản cố định đầu tư để sản xuất hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng, phần thuế tương ứng giá trị tài sản đầu tư được xác định là thuế đầu vào để tính số thuế phải nộp.

Thứ hai, không phải phần thuế giá trị gia tăng của mọi giá trị hàng hóa dịch vụ ở khâu mua vào đều được coi là phần thuế đầu vào. Số thuế đầu vào được xác định tương ứng với phần hàng hóa dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng.

Thứ ba, số thuế đầu vào phát sinh trong tháng nào, kê khai trong tháng đó. Quy định này một mặt hỗ trợ cơ quan quản lý, một mặt là cơ sở xác định điều kiện hoàn thuế giá trị gia tăng.

Thứ tư, thuế đầu vào của hàng hóa dịch vụ xuất khẩu phải đủ điều kiện luật định.

Khoản 2 Điều này đã quy định về những điều kiện đối với chủ thể nộp thuế theo phương pháp khấu trừ:

Chủ thể nộp thuế có hoạt động kinh doanh ổn định, chấp hành chế độ hạch toán kế toán, chế độ sử dụng chứng từ hóa đơn theo quy định hiện hành dành cho các chủ thế kinh doanh.

Đăng kí thuế, đã được cơ quan thuế cấp mã số thuế theo đúng trình tự luật định.

Đăng kí với cơ quan thuế và được cơ quan thuế và được cơ quan thuế chấp nhận nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ.

Liên hệ thực tiễn

Ví dụ: Công ty Bánh kẹo Hải Hà sản xuất kẹo trong tháng 01/2015 bán ra 300 tấn kẹo, giá bán mỗi tấn là 700.000 đồng/tấn ( giá chưa có thuế) thuế GTGT phải nộp là 10% (giá mua của người thanh toán là 880.000 đồng/tấn) cũng trong tháng công ty đã mua một số nguyên liệu để dùng cho sản xuất,kinh doanh Bánh kẹo.

Căn cứ các chứng từ, hoá đơn GTGT mua nguyên liệu số thu thuế GTGT đầu vào được xác định như sau:

Giả định các loại nguyên liệu mua vào chỉ để sản xuất bánh kẹo, thì thuế GTGT mà công ty phải nộp trong tháng là :

Số thuế GTGT đầu ra, tính trên số bánh kẹo mà công ty bán ra:

700.000đ x 300 tấn x 10% = 21.000.000 đồng

Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ là: 9.350.000 đồng.

Số thuế GTGT công ty phải nộp trong tháng là:

21.000.000 – 9.350.000 = 11.650.000 đồng

Trường hợp cơ sở kinh doanh không có hoá đơn chứng từ hoặc có hoá đơn, chứng từ nhưng không phải hoá đơn, chứng từ GTGT hoặc hóa đơn GTGT nhưng không ghi số thuế GTGT riêng ngoài giá bán thì không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, trừ các trường hợp được quy định sau đây: Trường hợp hàng hoá dịch vụ mua vào là loại được dùng chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có sẵn thuế GTGT thì cơ sở được căn cứ vào giá đã có thuế và để xác định giá không có thuế và thuế GTGT đầu vào được khấu trừ.

Như vậy, có thể nói trên thực tế, phương pháp khấu trừ thuế thường được áp dụng cho các đơn vị, tổ chức kinh doanh bao gồm doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, các công ty cổ phần, hợp tác xã và các đơn vị tổ chức kinh doanh khác theo Luật quy định có doanh thu hằng năm từ 1 tỷ đồng trở lên hoặc có doanh thu hằng năm dưới một tỷ đồng đã thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, sổ sách, hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật về kế toán, hoá đơn, chứng từ. Ví dụ: Công ty bánh kẹo Hải Hà, Công ty CP Văn phòng phẩm Hồng Hà, Công ty CP cồn rượu Hà Nội (Halico), Công ty CP rượu bia nước giải khát Hà Nội (Habeco),….

Phương pháp tính trực tiếp trên phần giá trị tăng thêm

Cơ sở pháp lý:

“Điều 11: Phương pháp tính trực tiếp trên phần giá trị gia tăng Số thuế giá trị gia tăng phải nộp theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng bằng giá trị gia tăng nhân với thuế suất thuế giá trị gia tăng áp dụng đối với hoạt động mua bán, chế tác vàng, bạc, đá quý.Giá trị gia tăng của vàng, bạc, đá quý được xác định bằng giá thanh toán của vàng, bạc, đá quý bán ra trừ giá thanh toán của vàng, bạc, đá quý mua vào tương ứng. Số thuế giá trị gia tăng phải nộp theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng bằng tỷ lệ % nhân với doanh thu áp dụng như sau:

Đối tượng áp dụng:

Doanh nghiệp, hợp tác xã có doanh thu hàng năm dưới mức ngưỡng doanh thu một tỷ đồng, trừ trường hợp đăng ký tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ thuế quy định tại khoản 2 Điều 10 của Luật này;

Hộ, cá nhân kinh doanh;

Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nhưng có doanh thu phát sinh tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ, trừ tổ chức, cá nhân nước ngoài cung cấp hàng hóa, dịch vụ để tiến hành hoạt động tìm kiếm, thăm dò, phát triển và khai thác dầu, khí nộp thuế theo phương pháp khấu trừ do bên Việt Nam khấu trừ nộp thay;

Tổ chức kinh tế khác, trừ trường hợp đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế quy định tại khoản 2 Điều 10 của Luật này;

Tỷ lệ % để tính thuế giá trị gia tăng được quy định như sau:

Phân phối, cung cấp hàng hoá: 1%;

Dịch vụ, xây dựng không bao thầu nguyên vật liệu: 5%;

Sản xuất, vận tải, dịch vụ có gắn với hàng hoá, xây dựng có bao thầu nguyên vật liệu: 3%;

Hoạt động kinh doanh khác: 2%.”

Phân tích:

Theo khoản 1 điều 11 Luật này, đối tượng của phương pháp tính trực tiếp trên phần giá trị tăng thêm là hoạt động mua bán, chế tác vàng bạc, đá quý. Theo đó, nếu phương pháp khấu trừ thuế xác định trực tiếp theo hiệu số thuế thì phương pháp tính trực tiếp xác định theo hiệu số kết quả kinh doanh của chủ thể kinh doanh vàng bạc đá quý.

Công thức tính:

Theo đó:

Chủ thể nộp thuế theo phương pháp trừ trực tiếp trong trường hợp này được pháp luật chỉ rõ là cơ sở chế tác, kinh doanh vàng bạc, đá quý mà không quy định chung chung.

Căn cứ tính phần “giá trị tăng thêm” là giá thanh toán, tức là giá đã có thuế GTGT được xác định trong chứng từ, hoá đơn

Thuế suất được áp dụng cho cả hàng hoá dịch vụ mua vào và hàng hoá dịch vụ bán ra. Đối với hàng hoá, dịch vụ ở khâu mua vào, nếu không chứng minh được đã bán ra, đã cung ứng, không được xác định là phần giá trị được phép trừ đi khi tính phần “giá trị gia tăng”.

* Theo khoản 2 Điều 11 luật này, ngoài trường hợp chủ thể kinh doanh vàng bạc, đá quý, phương pháp tính trực tiếp còn áp dụng đối với các đối tượng là cá nhân, hộ gia đình kinh doanh; doanh nghiệp, hợp tác xã có mức doanh thu dưới 1 tỉ đồng; cá nhân, tổ chức nước ngoài kinh doanh nhưng không có cơ sở thường trú tại Việt Nam.

Công thức tính:

Trong đó:

* Tỷ lệ % để tính được quy định theo điểm b) khoản 2 Điều 11. * Doanh thu để tính thuế giá trị gia tăng theo tỷ lệ %:

Là tổng số tiền bán hàng hoá, dịch vụ thực tế ghi trên hoá đơn bán hàng đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT bao gồm các khoản phụ thu, phí thu thêm mà cơ sở kinh doanh được hưởng. Nếu DN có doanh thu bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT và doanh thu hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu thì không áp dụng tỷ lệ (%) trên doanh thu đối với doanh thu này.

Cả 2 trường hợp theo khoản 1 và khoản 2 của Điều 11 Luật Thuế giá trị gia tăng 2008 (sửa đổi, bổ sung 2013) thì đều có tỉ lệ GTGT do cơ quan thuế ấn định. Xét về mặt bản chất, cách tính thuế GTGT theo nội dung trên thực chất là một hình thức áp thuế, khoán thuế.

Liên hệ thực tế:

Ví dụ: Công ty TNHH Thiên Ưng là doanh nghiệp kê khai, nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp. Công ty TNHH Thiên Ưng có doanh thu phát sinh từ hoạt động bán phần mềm máy tính và dịch vụ tư vấn thành lập doanh nghiệp thì thu từ hoạt động bán phần mềm máy tính (do phần mềm máy tính thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT) và phải kê khai, nộp thuế GTGT theo tỷ lệ 5% trên doanh thu từ dịch vụ tư vấn thành lập doanh nghiệp.

Cơ sở kinh doanh nhiều ngành nghề có mức tỷ lệ khác nhau phải khai thuế GTGT theo từng nhóm ngành nghề tương ứng với các mức tỷ lệ theo quy định; trường hợp người nộp thuế không xác định được doanh thu theo từng nhóm ngành nghề hoặc trong một hợp đồng kinh doanh trọn gói bao gồm các hoạt động tại nhiều nhóm tỷ lệ khác nhau mà không tách được thì sẽ áp dụng mức tỷ lệ cao nhất của nhóm ngành nghề mà cơ sở sản xuất, kinh doanh.

Ví dụ: Công ty cổ phần Vàng bạc Phú Nhuận, ngày 01/09/2015, công ty mua 1 lượng vàng giá 48.000.000 đồng, ngày 02/09/2015 công ty bán ra với giá 49.000.000 đồng. Như vậy thuế GTGT phải nộp là 49.000.000 – 48.000.000 = 1.000.000 đồng.

So sánh phương pháp tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên phần giá trị tăng thêm

Phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên phần giá trị tăng thêm đều là các phương pháp tính thuế giá trị gia tăng, được thu qua mỗi khâu của quá trình sản xuất kinh doanh.

Hai phương pháp đều giống nhau về các loại giấy tờ, biểu mẫu, chứng từ, sổ sách và báo cáo tài chính.

Phương pháp khấu trừ thuế

Phương pháp tính trực tiếp trên phần giá trị tăng thêm

Đối tượng áp dụng

– Chủ thể nộp thuế có hoạt động kinh doanh ổn định, chấp hành chế độ hạch toán kế toán, chế độ sử dụng chứng từ hóa đơn theo quy định hiện hành dành cho các chủ thế kinh doanh.

– Đăng kí thuế, đã được cơ quan thuế cấp mã số thuế theo đúng trình tự luật định.

– Đăng kí với cơ quan thuế và được cơ quan thuế và được cơ quan thuế chấp nhận nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ.

– Cá nhân, hộ kinh doanh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật.

– Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh không theo Luật Đầu tư và các tổ chức khác không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật.

– Hoạt động kinh doanh mua bán, vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ.

Trường hợp cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế có hoạt động kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý và hoạt động chế tác sản phẩm vàng, bạc, đá quý thì phải hạch toán riêng được hoạt động kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý để áp dụng theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT.

Loại hoá đơn sử dụng

Hoá đơn GTGT

Hoá đơn bán hàng

Công thức tính thuế

Số thuế GTGT phải nộp

= Số thuế GTGT đầu ra – Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ

Số thuế GTGT phải nộp

= Doanh thu tính thuế GTGT

x Tỷ lệ %

Tỷ lệ % thuế suất phải chịu

– Không chịu thuế

– Chịu thuế 0%

– Chịu thuế 5%

– Chịu thuế 10%

– Phân phối, cung cấp hàng hoá: 1%;

– Dịch vụ, xây dựng không bao thầu nguyên vật liệu: 5%;

– Sản xuất, vận tải, dịch vụ có gắn với hàng hoá, xây dựng có bao thầu nguyên vật liệu: 3%;

– Hoạt động kinh doanh khác

Trong bảng so sánh trên, sự khác biệt lớn nhất giữa các DN khấu trừ thuế và các DN tính thuế trực tiếp chính là việc một bên sử dụng hóa đơn GTGT và một bên phải sử dụng hóa đơn bán hàng để cung cấp cho khách hàng. Đa phần các DN đang áp dụng phương pháp khấu trừ, nên thích mua hàng có hóa đơn GTGT để đem về khấu trừ thuế đầu vào. Các DN mới thành lập, nếu áp dụng phương pháp tính trực tiếp và xuất hóa đơn bán hàng thì có lẽ chỉ có thể tìm kiếm đối tác là cá nhân, hộ kinh doanh hoặc những DN cũng đang áp dụng phương pháp tính trực tiếp như mình. Do đó mà khía cạnh thuận lợi của việc tính thuế theo phương pháp trực tiếp và sử dụng hóa đơn bán hàng để cung cấp cho khách hàng ngay tại thời điểm này đã không đạt hiệu quả như mong đợi lạc quan của nhà quản lý và làm luật.

Đánh giá ưu điểm và nhược điểm của từng phương pháp dưới góc độ cơ quan quản lý thuế

Được khấu trừ thuế GTGT đầu vào;

Có thể cân đối số thuế GTGT phải đóng bằng cách mua hàng để dự trữ và để xuất dùng…

Đối với doanh nghiệp có hoạt động nhập khẩu, có dự án đầu tư thì chỉ sử dụng phương án này thì mới được hoàn thuế.

Xác định đúng số thuế phải nộp ở từng khâu, từng chủ thể nộp thuế, chống thất thu thuế.

Đảm bảo thu đủ số thuế cần thiết điều tiết thu nhập của người tiêu dùng.

Đơn giản hóa quá trình quản lý và thu thuế, do số thuế phát sinh ở các khâu được phản ánh rõ trên chứng từ hóa đơn. Tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan thuế.

Doanh thu càng cao, thuế nộp càng nhiều, nhất là các sản phẩm có giá thành cao.

Để thực hiện đúng chế độ kế toán, hóa đơn chứng từ không phải dễ. Có quá nhiều quy định yêu cầu chuyên môn kế toán cao, áp dụng cho các doanh nghiệp thực hiện đầy đủ chế độ kế toán hóa đơn chứng từ.

Phương pháp tính trực tiếp trên phần giá trị tăng thêm

Thuận lợi cho việc tính thuế GTGT áp dụng với các hoạt động mua bán, chế tác vàng bạc đá quý.

Chủ thể nộp thuế được quy định cụ thể là cơ sở chế tác, kinh doanh vàng bạc đá quý. Thuận lợi cho cơ quan thu thuế.

DN không cần phải thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, sổ sách, hóa đơn, chứng từ, không cần các hóa đơn GTGT ở đầu vào vì không được khấu trừ thuế.

Thuế GTGT được thu trực tiếp trên doanh thu, (tỷ lệ này chỉ từ 1% – 5%, tùy ngành).

Tỉ lệ chủ thể nộp thuế theo phương pháp này chiếm tỉ lệ nhỏ so với phương pháp khấu trừ nhưng chi phí quản lý lại cao hơn.

Không được khấu trừ, hoàn thuế GTGT đầu vào ảnh hưởng đến chi phí và giá thành sản phẩm, dịch vụ.

Thực tế quản lý cho thấy, các chủ thể nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ chiếm tỉ lệ không lớn so với tổng các chủ thể nộp thuế GTGT nhưng số thuế được thu, nộp lại chiếm đa số. Ngược lại, chủ thể nộp thuế theo phương pháp trừ trực tiếp chiếm tỉ lệ lớn, nhưng tổng thu thuế GTGT của các đối tượng này không cao, chi phí quản lí thuế lớn.

Để đảm bảo sự bình đẳng cho các chủ thể và tránh các hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh, cần xác định rằng phương pháp tính thuế trực tiếp chỉ là tạm thời. Cần đưa ra một lộ trình nhất định để các đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp chuẩn bị chuyển sang phương pháp khấu trừ.

Trân trọng./.

Cách Tính Thuế Giá Trị Gia Tăng Theo Phương Pháp Tính Thuế Trực Tiếp

Một trong những phương pháp tính thuế giá trị gia tăng là phương pháp trực tiếp. Đây là phương pháp được áp dụng phổ biến hiện nay.

1. Đối tượng áp dụng cách tính thuế theo phương pháp trực tiếp

– Doanh nghiệp, hợp tác xã đang hoạt động có doanh thu hàng năm dưới mức ngưỡng doanh thu một tỷ đồng. Trừ trường hợp đăng ký tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ thuế quy định.

– Doanh nghiệp, hợp tác xã mới thành lập, trừ trường hợp đăng ký tự nguyện

– Hộ, cá nhân kinh doanh;

– Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam không theo Luật Đầu tư và các tổ chức khác không thực hiện. Hoặc thực hiện không đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật. Trừ các tổ chức, cá nhân nước ngoài cung cấp hàng hóa, dịch vụ để tiến hành hoạt động tìm kiếm, thăm dò, phát triển và khai thác dầu khí.

Cách xác định giá tính thuế giá trị gia tăng trong công ty cổ phần

2. Cách tính số thuế GTGT phải nộp theo phương pháp trực tiếp

2.1. Cách tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp trên doanh thu:

Số thuế giá trị gia tăng phải nộp theo phương pháp này được tính như sau:

Số thuế giá trị gia tăng phải nộp = doanh thu x tỷ lệ %

Tỷ lệ % để tính thuế GTGT trên doanh thu được quy định theo từng hoạt động như sau:

Là tổng số tiền bán hàng hoá, dịch vụ thực tế ghi trên hoá đơn bán hàng đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT. Bao gồm các khoản phụ thu, phí thu thêm mà cơ sở kinh doanh được hưởng.

Trường hợp cơ sở kinh doanh có doanh thu bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT và doanh thu hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu thì không áp dụng tỷ lệ (%) trên doanh thu đối với doanh thu này.

Cơ sở kinh doanh nhiều ngành nghề có mức tỷ lệ khác nhau phải khai thuế GTGT theo từng nhóm ngành nghề tương ứng với các mức tỷ lệ theo quy định. Trường hợp người nộp thuế không xác định được doanh thu theo từng nhóm ngành nghề hoặc trong một hợp đồng kinh doanh trọn gói thì sẽ áp dụng mức tỷ lệ cao nhất của nhóm ngành nghề mà cơ sở sản xuất, kinh doanh.

2.2. Đối với doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng vàng, bạc, đá quý:

Số thuế GTGT phải nộp = giá trị gia tăng x thuế suất

Mức thuế suất áp dụng trong trường hợp này là 10%

Giá trị gia tăng của vàng, bạc, đá quý được xác định bằng

GTGT = giá thanh toán của vàng, bạc, đá quý bán ra – giá thanh toán của vàng, bạc, đá quý mua vào tương ứng.

Giá thanh toán của vàng, bạc, đá quý bán ra là giá thực tế bán ghi trên hoá đơn bán vàng, bạc, đá quý. Bao gồm cả tiền công chế tác (nếu có), thuế giá trị gia tăng và các khoản phụ thu, phí thu thêm mà bên bán được hưởng.

Giá thanh toán của vàng, bạc, đá quý mua vào được xác định bằng giá trị vàng, bạc, đá quý mua vào. Hoặc nhập khẩu, đã có thuế GTGT dùng cho mua bán, chế tác vàng, bạc, đá quý bán ra tương ứng.

Trường hợp trong kỳ tính thuế phát sinh giá trị gia tăng âm (-) của vàng, bạc, đá quý thì được tính bù trừ vào giá trị gia tăng dương (+) của vàng, bạc, đá quý. Trường hợp không có phát sinh giá trị gia tăng dương (+) hoặc giá trị gia tăng dương (+) không đủ bù trừ giá trị gia tăng âm (-) thì được kết chuyển để trừ vào giá trị gia tăng của kỳ sau trong năm. Kết thúc năm dương lịch, giá trị gia tăng âm (-) không được kết chuyển tiếp sang năm sau.

Nộp tờ khai thuế GTGT trong Công ty cổ phần

3. Đối với hộ, cá nhân kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khoán:

Cơ quan thuế xác định doanh thu, thuế GTGT phải nộp theo tỷ lệ % trên doanh thu của hộ khoán theo quy định pháp luật. Căn cứ vào tài liệu, số liệu khai thuế của hộ khoán, cơ sở dữ liệu của cơ quan thuế,… và ý kiến của Hội đồng tư vấn thuế xã, phường.

Trường hợp hộ, cá nhân nộp thuế theo phương pháp khoán kinh doanh nhiều ngành nghề thì cơ quan thuế xác định số thuế phải nộp theo tỷ lệ của hoạt động kinh doanh chính.

Kê khai thuế GTGT đối với hoạt động xây dựng vãng lai ngoại tỉnh