Top 11 # Xem Nhiều Nhất Ý Nghĩa Phương Pháp Nghiên Cứu Định Tính Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Cuocthitainang2010.com

Phương Pháp Nghiên Cứu Định Tính

Phương pháp nghiên cứu định tính là gì

Ví dụ về nghiên cứu định tính

Như đã nói ở phần trên, nghiên cứu định tính nhằm khám phá vấn đề, thường được dùng khi nhà quản trị chưa hiểu về hành vi người tiêu dùng. Ví dụ như nhà quản trị muốn biết đặc điểm sản phẩm được ưa thích, hay thái độ của người dùng với concept truyền thông.

mẫu TVC của VIM bị phản ứng: bị cho dùng hình ảnh ghê rợn

Thu thập dữ liệu trong nghiên cứu định tính

Chủ đề tế nhị không phù hợp để hỏi trong nhóm nhiều người.

Diễn dịch

Trong cách thu thập dữ liệu bằng kỹ thuật diễn dịch, nhà nghiên cứu nêu lên một bối cảnh và để đối tượng nghiên cứu tự thể hiện. Sự tự thể hiện ở đây có thể là: điền vào 1 chỗ trống trong đoạn văn, thêm 1 tính chất có liên hệ với 1 đối tượng, tự hình dung tính cách các nhân vật tượng trưng cho một số đối tượng…

Lấy mẫu trong nghiên cứu định tính

Nghĩa là nếu nhà nghiên cứu tìm hiểu hành vi người tiêu dùng ở Tp HCM thì không thể phỏng vấn người ở Hà Nội.

Về cỡ mẫu, nghiên cứu định tính nhằm tìm hiểu, khám phá các đặc điểm, tính chất… KHÔNG NHẰM LƯỢNG HÓA các đặc điểm đó. Nghĩa là không nhằm trả lời câu hỏi “Bao nhiêu”. Vì vậy, nhà nghiên cứu không cần lấy mẫu xác suất.

Trong nghiên cứu định tính, người ta thường lấy theo phương pháp tới hạn. Sau khi tìm hiểu một số đối tượng, nếu không khám phá ra đặc điểm mới, người ta dừng lấy mẫu.

Vì cách chọn cỡ mẫu như trên, nghiên cứu định tính thường có cỡ mẫu nhỏ.

Phân tích dữ liệu trong nghiên cứu định tính

Dữ liệu trong nghiên cứu định tính được phân tích qua 3 bước: mô tả hiện tượng, phân loại hiện tượng và kết nối các hiện tượng.

Để dễ hiểu, ta xem xét trường hợp suy luận của Sherlock Holmes trong phim The dancing men.

Mô tả hiện tượng: nhà quý tộc được yêu cầu viết lại đầy đủ rồi gởi cho Holmes.

Phân loại hiện tượng: các hình trên là hình người đang nhảy múa. Một số lặp lại, tần suất lặp lại khác nhau.

Kết nối hiện tượng: Holmes đoán rằng các hình nhân nhảy múa chỉ thay thế cho các ký tự alphabet. Trong tiếng Anh, chữ “e” được lặp lại nhiều nhất. Chữ “e” được gán cho hình nhân có tần suất xuất hiện nhiều nhất trong bước trên để kiểm tra.

Sơ lược bối cảnh phim:

Một quý tộc Anh cưới vợ người Mỹ tên là Elsie. 2 người sống hạnh phúc.

Một hôm, trong vườn có 1 số ký tự lạ.

Elsie cực kỳ hốt hoảng.

Lại một loạt ký tự lạ.

Elsie trả lời bằng ký tự lạ.

Lại ký tự lạ.

Làm như trên là nghiên cứu định tính.

Lưu ý: bước mô tả hiện tượng ở ví dụ trên trong trường hợp trên khá đơn giản. Thực tế, hành vi con người không dễ gì được khám phá bằng cách mô tả hiện tượng đơn giản như trên (chép lại ký tự trên giấy). Mà thường được ghi âm, ghi hình đầy đủ để nhà nghiên cứu có dữ liệu đầy đủ cho bước phân loại hiện tượng và kết nối hiện tượng.

Trong các trường hợp cụ thể khác, dữ liệu, đối tượng nghiên cứu định tính có thể khác nhau nhưng nhà nghiên cứu vẫn thực hiện qua 3 bước: mô tả hiện tượng, phân loại hiện tượng, kết nối hiện tượng.

Tóm lại

Ở trên là khái quát về nghiên cứu định tính. Nhìn thì thấy không khó, nhưng để thực hiện cho đúng phương pháp thì không dễ.

(*): Giáo trình nghiên cứu thị trường – Nguyễn Đình Thọ – NXB Lao Động

Sự Khác Biệt Giữa Phương Pháp Nghiên Cứu Định Tính Và Phương Pháp Nghiên Cứu Định Lượng

Phương pháp nghiên cứu định tính

Phương pháp nghiên cứu định lượng

– NCĐT là phương pháp thu thập dữ liệu bằng chữ và là phương pháp tiếp cận nhằm tìm cách mô tả và phân tích đặc điểm của nhóm người từ quan điểm của nhà nhân học.

NCĐL là phương pháp thu thập dữ liệu bằng số và giải quyết quan hệ trong lý thuyết và nghiên cứu theo quan điểm diễn dịch.

– NCĐT theo hình thức quy nạp, tạo ra lý thuyết, phương pháp nghiên cứu định tính còn sử dụng quan điểm diển giải, không chứng minh chỉ có giải thích và dùng thuyết kiến tạo trong nghiên cứu.

NCĐL chủ yếu là kiểm dịch lý thuyết, sử dụng mô hình Khoa học tự nhiên thực chứng luận, phương pháp NCĐL có thể chứng minh được trong thực tế và theo chủ nghĩa khách quan

a/ Phỏng vấn sâu :

– phỏng vấn không cấu trúc.

– phỏng vấn bán cấu trúc.

– phỏng vấn cấu trúc hoặc hệ thống.

c/ Quan sát tham dự:

a/ Nghiên cứu thực nghiệm thông qua các biến.

b/ nghiên cứu đồng đại chéo có nghĩa là thiết kế n/c trong đó các dữ liệu được thu thập trong cùng một thời điểm.

vd : nghiên cứu việc học của con gái ở thành thị và nông thôn.

c/ Nghiên cứu lịch đại thì dữ liệu thu thập theo thời gian trong đó các dữ liệu được so sánh theo thời gian.

d/ Nghiên cứu trường hợp là thiết kế nghiên cứu tập trung vào một trường hợp cụ thể.

e/ Nghiên cứu so sánh là thiết kế n/c trong cùng một thời điểm hay qua nhiều thời điểm .

a/ chọn mẫu xác xuất :

– mẫu xác xuất ngẫu nhiên.

– mẫu xác xuất chùm

– mẫu hệ thống.

– mẫu phân tầng.

– mẫu cụm.

a/ chọn mẫu xác xuất:

– mẫu ngẫu nhiên đơn giản.

– chọn mẫu hệ thống.

– chọn mẫu phân tầng.

– chọn mẫu cụm.

– không theo thứ tự.

– câu hỏi mở.

– câu hỏi dài.

– câu hỏi gây tranh luận.

– theo thứ tự.

– câu hỏi đóng – mở.

– câu hỏi được soạn sẵn.

– câu hỏi ngắn ngọn, xúc tích.

– câu hỏi không gây tranh luận

Điểm mạnh và hạn chế của phương pháp nghiên cứu định lượng

Nhóm chúng tôi sẽ trình bày vấn để theo hướng phân tích bài nghiên cứu khoa học do Th.s Nguyễn Thị Nguyệt làm chủ nhiệm để tài ” bất bình đẳng giới về thu nhập của người lao động ở Việt Nam và gợi ý một số giải pháp chính sách”

*Những điểm mạnh khi tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng trong quá trình thu thập phân tích dữ liệu

Thứ nhất tác giả đã sử dụng công thức của Oaxaca để tính khoảng cách thu nhập giữa nam và nữ được tính như sau:

Trong đó: w chỉ thu nhập bình quân theo giờ, m biểu thị cho nam và f biểu thị cho nữ.

wm và wf với dấu gạch ngang là giá trị trung bình của lương nam và nữ;

xm và xf là vectơ gía trị trung bình của các biến độc lập của nam và nữ dựa trên kết quả tính toán thu được đó tác giả mô tả,chứng minh được sự bất sự bất bình đẳng giới trong thu nhập nên nam giới được hưởng mức tiền lương phù hợp trong khi phụ nữ bị trả công ở mức thấp hơn mức họ đáng được hưởng. Và nếu như vậy thì hệ số thu nhập của nam được coi là hệ số cấu trúc lương không có bất bình đẳng còn hệ số thu nhập của nữ thể hiện cấu trúc lương bất bình đẳng.Và sử dụng nhiều công thức trong khoa học tự nhiên đễ tông hợp thống kê các số liệu mà tác giả thu thập dược phục vụ cho vấn đề tác giả nghiên cứu nhằm làm rõ thêm nội dung.

Thứ hai tác giả khảo sát bằng bản hỏi các yếu tố về:

2) yếu tố phi kinh tế: quan điểm giới, về điều kiện văn hoá, môi trường, an ninh, ổn định chính trị…Từ đó giải quyết đề đặt ra theo chiều nguyên nhân – kết quả.

Điểm mạnh thứ ba là tác giả có thề khát quát được vấn đề mở rộng hơn không chỉ ở Việt Nam “Kết quả nghiên cứu cho thấy ở Việt Nam có bất bình đẳng giới trong thu nhập, tuy nhiên khoảng cách về thu nhập và sự phân biệt có xu hướng thu hẹp lại, tương tự như ở Trung Quốc, sự bất bình đẳng này do sự phân biệt trong xã hội, từ tư tưởng Nho giáo lâu đời. Sự bất bình đẳng trong thu nhập của nữ so với nam là nguyên nhân của cả định kiến của người thuê lao động lẫn các nguyên nhân thị trường”.

Thứ tư những con số mà tác giả đo lường,phân tích đưa đến kết quả cuối cùng thì bất cứ nhà nghiên cứu nào cùng có thế kiểm nghiệm lại

*Tuy nhiên bên cạnh những điểm mạnh thì kèm Điểm mạnh và hạn chế của phương pháp nghiên cứu định lượng.

Thứ nhất chỉ xem xét vấn đề dựa trên số lịêu không khám phá hết những nhân tố ảnh hưởng khác.

Ví dụ như trong bài nguyên cứu “Các biến giải thích đại diện cho các yếu tố ảnh hưởng đến tiền công, tiền lương, cũng như ảnh hưởng tới sự chênh lệch giữa tiền công tiền lương. Qua các nghiên cứu cho thấy, các yếu tố ảnh hưởng lớn đến lương bao gồm:

1) nhóm đặc tính của người lao động: nhóm tuổi, tình trạng hôn nhân, trình độ giáo dục, tình trạng sức khỏe, chi tiêu bình quân đầu người;

2) nhóm yếu tố về lao động bao gồm: trình độ chuyên môn, ngành, nghề lao động, tổ chức làm việc, kinh nghiệm làm việc;

3) nhóm yếu tố địa lý: vùng, thành thị và nông thôn” nếu dùng bản hỏi với những câu hỏi đưa ra những lựa chọn để người cung cấp thông tin trả lời không thể rất khó khái thác thêm những thông tin sâu hơn.

Mặt hạn chế nữa chính là phương pháp định lượng chỉ chú trọng đến con số nhưng trong nghiên cứu này có nhiều vấn đề không được nghiên cứu mà phải dựa vào kết quả nghiên cứu đã được thực hiện .

ví dụ tác giả đã sử dụng kết quả một số công trình như:

Lý thuyết về khung phân tích giới (Gender Analysis Framework) đã hình thành và được cụ thể hoá qua 8 công cụ phân tích giới. Đó là:

l) Phân công lao động theo giới (the sexual/gender division of labor);

2) Loại công việc (types of work);

3) Tiếp cận và kiểm soát nguồn lực (access to and control over resources and benefits);

4) Những nhân tố ảnh hưởng (influencing factors);

5) Tình trạng và địa vị (condition and position);

6) Nhu cầu thực tế và lợi ích chiến lược (practical needs and strategic interests);

7) Các cấp độ tham gia (levels of participation);

8) Khả năng biến đổi (potential for transformation).

Phương Pháp Nghiên Cứu Của Tội Phạm Học? Ý Nghĩa?

19392

1. Phương pháp nghiên cứu của tội phạm học

Tội phạm học khác với các khoa học pháp lý khác ở chỗ trong tội phạm học sử dụng phổ biến và có hiệu quả phương pháp thống kê và một số phương phương nghiên cứu cụ thể của xã hội học như phương pháp phiếu điều tra, phương pháp phỏng vấn, phương pháp chuyên gia, phương pháp quan sát, phương pháp thực nghiệm,…

a) Phương pháp thống kê

– Bước thứ nhất: Thu thập các tài liệu cần thiết về tội phạm xảy ra theo thời gian và lãnh thổ nhất định.

Trong tội phạm học, phương pháp thống kê thường được sử dụng vào việc đánh giá thực trạng, mức độ, cơ cấu, diễn biến tội phạm, phân tích làm rõ nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm, các đặc điểm xã hội nhân khẩu của nhân thân người phạm tội; xác định quy luật vận động phát triển của tội phạm để dự báo tội phạm, soạn thảo những biện pháp phòng chống tội phạm trong những năm tiếp theo. Phương pháp thống kê áp dụng trong nghiên cứu tội phạm học theo trình tự gồm ba bước chính là:

Quá trình này do các cơ quan các ngành trên cơ sở chức năng nhiệm vụ của mình trong quá trình tham gia vào các giai đoạn của trình tự tố tụng mà pháp luật tố tụng hình sự qui định tiến hành thống kê theo nội dung và tiêu chí nhất định. Đơn vị thống kê được xác định là vụ và người phạm tội. Các trường hợp phạm tội và những người phạm tội sẽ được ghi chép theo những dấu hiệu nhất định trong các tài liệu thống kê đầu tiên như các phiếu đăng ký, các biểu mẫu, v.v… Ví dụ: Cơ quan công an đăng ký vào sổ từng vụ án đã phát hiện và từng người tham gia vào vụ án theo biểu mẫu sau:

Bước thứ hai: Phân loại tài liệu thống kê.

Còn ở tòa án có các biễu mẫu thống kê từng vụ án và từng bị cáo. Hiện nay ở tòa án có bốn loại biểu mẫu thống kê là: Thống kê xét xử hình sự sơ thẩm; thống kê xét xử hình sự phúc thẩm; thống kê xét xử hình sự giám, phúc thẩm và tái thẩm; thống kê thi hành án hình sự.

Các tài liệu thống kê đã thu thập được phân thành từng lọại, từng nhóm có chung những đặc điểm và tính chất giống nhau. Trong thống kê, có hai cách phân loại các dấu hiệu theo tiêu chí về số lượng hoặc chất lượng. Cách phân loại các dấu hiệu dựa vào số lượng thường được áp dụng trong khi nghiên cứu những đặc điểm, dấu hiệu nhân thân người phạm tội. Ví dụ: Nghiên cứu độ tuổi của bị cáo, thời gian hình phạt tù đã áp dụng, số lần tái phạm v.v…

Cách phân loại các dấu hiệu dựa vào chất lượng thường được áp dụng phân loại tội phạm thành những nhóm theo các dấu hiệu như sau:

– Thời gian phạm tội

– Địa điểm phạm tội

– Thủ đoạn và phương pháp thực hiện tôi phạm

– Công cụ, phương tiện phạm tội;

– Đối tượng tác động của tội phạm;

– Khách thể của tội phạm;

– Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội củạ tội phạm;

– Lãnh thổ (tỉnh, thành phố, huyện, quận,…);

– Ngành kinh tế;

– Lí do phạm tội (ghen tuông, trả thù, vụ lợi…);

– Khuynh hướng của tội phạm (các tội phạm có tính chiếm đoạt, các tội có dùng vũ lực…)

Ngoài ra, cách phân loại dựa vào chất lượng còn được áp dụng phân loại người phạm tội theo dấu hiệu sau:

– Dấu hiệu xã hội – nhân khẩu – như giới tính, tuổi, trình độ văn hoá, quốc tịch, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh kinh tế…

– Dấu hiệu pháp luật hình sự như tội danh, tái phạm, loại và mức hình phạt đã áp dụng…

– Dấu hiệu tâm sinh lí như động cơ, mục đích, nhu cầu, sở thích thói quen…

Bước thứ ba: Phân tích, so sánh và tổng hợp: các tài liệu, số liệu thống kê thu nhận được.

Phương pháp phân loại như vậy cho phép nhận thức chính xác về cơ cấu và diễn biến của tình hình tối phạm trong thời gian nghiên cứu. Ngoài ra, còn có một số cách phân loại khác nữa được sử dụng trong khi tiến hành xác định mối liên hệ khác nhau như trình độ văn hóa, điều kiện văn hóa, điều kiện kinh tế, tệ nạn xã hội (nghiện rượu, nghiện ma túy, mại dâm, cờ bạc,…) thì phải phân loại theo cách phân chia phân tích.

Đây là bước cuối cùng và quan trọng nhất của trình tự thống kê. Trước hết cần tiến hành sửa chữa, chỉnh lý các tài liệu, số liệu đã được tập hợp hệ thống thành nhóm, loại theo những tiêu chí nhất định để tạo điều kiện thuận lợi cho việc so sánh giữa chúng với nhau. Việc chỉnh lý tài liêu được thực hiện trong quá trình lập con số tuyệt đối. Các con số tuyệt đối phải bảo đảm các yêu cầu: tính chính xác, tính đầy đủ và tính có thể so sánh được. Quá trình phân tích, so sánh các tài liệu, số liệu thông kê và tổng hợp để đưa ra kết luận về thực trạng, mức độ, cơ cấu, diễn biến của tình hình tội phạm, về thiệt hại do tội phạm đã gây ra cho xã hội, về nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Trong tội phạm học thường sử dụng một số phương pháp thống kê cụ thể như số tuyệt đối, số tương đối, số trung bình, đồ thị, biểu đồ và một số phương pháp khác…

– Phương pháp số tuyệt đối (số lớn) thường được áp dụng khi đánh giá về mặt lượng của hiện tượng. Sẽ tuyệt đối thể hiện quy mô, khối lượng của hiện tượng tội phạm trong xã hội thể hiện số lượng tội phạm và người phạm tội đã được làm rõ trong từng thời gian và trong từng địa bàn lãnh thổ nhất định.

Ví dụ: Trong 5 năm từ năm 1997 đến năm 2001, ở Việt Nam, tổng số tội phạm và người phạm tội đã xét xử sơ thẩm là 248 871 vụ với 382 769 bị cáo.

– Phương pháp số tương đối thường được áp dụng khi nghiên cứu mức độ phổ biến của tội phạm trong dân cư cũng như về cơ cấu, diễn biến của tình hình tội phạm và các nguyên nhân của nó. Có ba loại số tương đối:

+ Số tương đối phản ánh quan hệ cường độ còn được gọi là hệ số về tội phạm. Nó thể hiện tính phổ biến của tội phạm trong từng thời gian và trong từng khu vực dân cư. Hệ số về tội phạm được tính bằng cách so sánh số lượng tội phạm hoặc số lượng người phạm tội với số lượng dân. Ví dụ, năm 1997, hệ số về tội phạm ở Việt Nam là 84,15; Singapore là 969,87; Colombia là 576,76; Italia là 4271,65… (tính theo số tội phạm trên 100.000 dân nói chung).

+ Số tương đối phản ánh quan hệ phân chia (cơ cấu của sự tổng hợp). Nó là tỷ lệ giữa từng phần riêng biệt đối với tổng số của chúng. Dạng số tương đối này được áp dụng trong nghiên, cứu làm sáng tỏ về cơ cấu, tính chất của tình hình tội phạm và các nguyên nhân của họ ví dụ: Trong tổng số tội phạm đã xét xử hình sự sơ thẩm năm 1998 thì có 14,59% các tội xâm phạm tính mạng sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người 49,12% các tội xâm phạm sở hữu (XHCN và công dân); 26,28% các tội xâm phạm an toàn trật tự công cộng; còn lại là các tội phạm khác.

+ Số tương đối phản ánh sự thay đổi của hiện tượng theo thời gian Loại số tương đối nay được áp dụng trong nghiên cứu làm sáng tỏ diễn biến (động thái) của tình hình tội phạm. Nó là kết quả so sánh mức độ của hiện tượng ở hai thời kỳ khác nhau. Ví dụ nếu tổng số tội phạm đã xét xử hình sự sơ thẩm năm 1986 là 100% làm gốc để so sánh với các năm sau: năm 1990 – 105%, măm 1991 – 118%, năm 1992 – 116%, năm 1993 – 160%, năm 1994 – 153%, năm 1995 – 161%, năm 1996 – 229%, năm 1997 – 240%, năm 1998 – 242%, 1999 – 245%, năm 2000 – 241% năm 2001 – 239%. Từ các con số tương đối trên, chúng ta có thể rút ra kết luận về diễn biến của tình hình tội phạm trong thời gian qua là có xu hướng tăng liên tục và tăng nhanh từ năm 1990 cho đến năm 1999, sau đó, tội phạm có chiều hướng giảm bắt đầu từ năm 2000 cho đến nay với mức độ giảm chậm.

– Phương pháp số trung bình (bình quân) thể hiện mức trung bình về mặt số lượng của hiện tượng. Phương pháp này được áp dụng khi xác định đặc điểm của nhân thân người phạm tội và của tình hình tội phạm. Ví dụ: Độ tuổi trung bình của những người phạm tội nói chung hoặc của: từng nhóm tội phạm cụ thể; hoặc số tội phạm trung bình xảy ra hàng năm trong thời kì đổi mới.

– Phương pháp đồ thị, biểu đồ: Thể hiện tình hình tội phạm trên bảng bằng các đường (tròn, thẳng, cột…) theo thời gian nhằm xác định mô hình tội phạm, đánh giá, theo dõi sự thay đổi, diễn biến tội phạm, khám phá quy luật vận động của nó để từ đó có thể dự báo tội phạm trong những năm tiếp theo.

b) Các phương pháp xã hội học được trong các nghiên cứu tội phạm học chọn lọc

Mặc dù phương pháp thống kê là phương pháp quan trọng nhất đối với công việc nghiên cứu tội phạm. Tuy nhiên, phương pháp thống kê nói chung và phương pháp thống kê hình sự nói riêng cũng có mặt hạn chế của nọ. Điều này thể hiện ở chỗ lượng thông tin về tội phạm trong một khoảng thời gian do thống kê hình sự cung cấp không phản ánh chính xác về tội phạm trong giai đoạn hiện tại vì các tội phạm đó đã xảy ra trong thời gian trước. Mặt khác, số lượng tội phạm được ghi trong sổ, biểu mẫu thống kê, còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố ảnh hưởng lớn nhất vẫn là chất lượng, hiệu quả của công tác phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm của các cơ quan tư pháp hình sự. Do việc sử dụng các số liệu thống kê không đáp ứng được yêu cầu nghiên cứu tội phạm một cách sâu rộng, toàn diện nên trong tội phạm học ngoài các phương pháp thống kê còn sử dụng các phương pháp xã hội học như phiếu điều tra (thăm dò dư luận); phỏng vấn, chuyên gia (đánh giá thẩm định), quan sát, thực nghiệm… để thu thập thêm các dấu hiệu, thông tin bổ sung cho các thông tin thu nhận được từ thống kê. Các phương pháp nghiên cứu chọn lọc này thường được sự dụng trong việc nghiên cứu tội phạm ẩn, nạn nhân của tội phạm, các nhân tố cá nhân, môi trường, động cơ, lý do phạm tội, phương pháp, thủ đoạn thực hiện phạm tội, thiệt hại do các tội pham gây ra, hiệu quả của các biện pháp phòng chống tội phạm đã thực hiện, dư luận xã hội về tình hình tội phạm và công tác đấu tranh với nó. Các phương pháp nghiên cứu xã hội học chỉ được sử dụng trong các nghiên cứu tội phạm học chọn lọc. Bản chất của việc nghiên cứu chọn lọc chỉ là nghiên cứu một bộ phận (có chọn lọc) trong tổng thể nhưng kết quả thu được lại phản ứng đặc điểm, tính chất, quy luật của tất cả các hiện tượng trong tổng thể đó.

Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu các hiện tượng đã được chọn lọc có thể không phản ánh đúng toàn bộ tổng thể các hiện tượng nếu việc chọn lọc không cẩn thận, chính xác. Muốn biết sai số của việc nghiên cứu chọn lọc, cần phải dựa vào công thức do khoa học thống kê đưa ra. Mức độ sai số của phân tích chọn lọc phụ thuộc vào số lượng và thành phần các hiện tượng đã được chọn lọc trong tổng thể các hiện tượng. Để hạn chế mức độ sai số của việc nghiên cứu chọn lọc cần phải tăng số lượng các hiện tượng chọn lọc.

c) Phương pháp phiếu điều tra (thăm dò dư luận)

Phương pháp phiếu điều tra trong tội phạm học là tổng hợp các kĩ thuật, chiến thuật hỏi câu hỏi đạt kết quả các nhờ sự phân tích các tài liệu, số liệu thu nhận được từ những người được hỏi đã trả lời những câu hỏi viết trong bảng câu hỏi (phiếu điều tra).

Tổ chức các câu trả lời phải sử dựng hai hình thức hỏi:

Thứ nhất, câu hỏi đúng: Loại câu hỏi này có nhiều câu trả lời loại trừ lẫn nhau để người trả lời phải lựa chọn cậu trả lời. Ví dụ: Câu hỏi: Xin vui lòng cho biết thái độ của gia đình khi biết anh/chị nghiện ma tuý?

Thứ hai, câu hỏi mở không đặt cấu trúc như vậy cho câu trả lời và để cho người trả lời tự do theo nhận thức của họ. Chẳng hạn:

Câu hỏi: Tại sao anh/chị lại nghiên ma tuý? hoặc

Tại sao anh/chị bị lừa đảo mất tài sản mà lại không khai báo cho cơ quan công an?

Phương pháp phiếu điều tra thường được áp dụng khi nghiên cứu về nạn nhân của tội phạm, nguyên nhân phạm tội của một số loại tội phạm cụ thể, đặc điểm cá nhân người phạm tội… Để thu được lượng thông tin khách quan đòi hỏi phải tuân thủ nguyên tắc giấu tên khi hỏi. Mặt khác, nó còn như thuộc vào người được hỏi và khả năng tổ chức cuộc điều tra của cán bộ nghiên cứu.

d) Phương pháp phỏng vấn

Phương pháp phỏng vấn về cơ bản giống với phương pháp phiếu điều tra. Điểm khác nhau giữa hai phương pháp này ở chỗ người trả lời trong cuộc phỏng vấn là trả lời cho nhồng câu hỏi miệng. Trong các cuộc phỏng vấn, mức độ tổ chức của các câu hỏi có thể biến đổi

Phỏng vấn tự do (phỏng vấn hoàn toàn không có tổ chức). Người phỏng vấn đơn giản chỉ trao đổi với người trả lời. Trong thời gian trao đổi chuyện trò với người trả lời có thể hỏi xoay vào những điểm mà người phỏng vấn quan tâm. Dạng phỏng vấn này có thể tìm hiểu cặn kẽ về thế giới của người trả lời và khám phá ra những đặc điểm thuộc về nhân thân cá nhân người được hỏi.

Phỏng vấn có trọng tâm là dạng phỏng vấn mà ở đó các câu hỏi đã được chuẩn bị tập trung vào những vấn đề đặc biệt theo những trật tự nhất định với những lời lẽ dung để hỏi cho phù hợp. Dạng phỏng vấn này được sử dụng để thu nhận ý kiến của xã hội với mục đích là thu nhận kết quả đối chứng càng nhiều càng tốt.

Phỏng vấn có tổ chức là loại phỏng vấn mà thứ tự và lời lẽ câu hỏi được chuẩn bị trước và mỗi người được hỏi một câu theo một cách thức với những câu hỏi nối tiếp theo cùng thứ tự vào mọi lúc. Dạng phỏng vấn này được sử dụng để nghiên cứu sự thay đổi diễn ra trong cuộc sống xã hội hoặc trong ý thức, tư tưởng của quần chúng sau thời gian nhất định.

Kết quả thu nhận được trong quá trình phỏng vấn được ghi chép trong sổ tay cuối cuộc phỏng vấn có thể ghi nội dung cuộc phỏng vấn bằng các mã số. Mục đích của mã hoá là sự chuyển đổi các câu trả lời cho các câu hỏi sang các biểu tượng có thể so sánh với nhau. Cái lợi của việc viết mã số là ở chỗ các câu trả lời có thể chuyển sang một cái thẻ có bấm lỗ (thẻ máy tính) và hầu như bất cứ loại so sánh nào giữa tập hợp những câu trả lời khác nhau đều có thể tiến hành một cách dễ dàng với sự trợ giúp của máy tính.

e) Phương pháp quan sát

Phương pháp quan sát là phương pháp nghiên cứu các quan hệ xã hội trong thực tiễn cuộc sống. Trong tội phạm học đối tượng quan sát cơ bản là điều kiện sống của người đã phạm tội, quá trình giáo dục cải tạo của người, phạm tội, kết quả của các biện pháp phòng ngừa… Có ba loại quan sát:

Thứ nhất, quan sát bên ngoài (toàn phần). Người quan sát đối tượng từ bên ngoài và không can thiệp vào các quan hệ của đối tượng. Ví dụ như nghiên cứu quá trình hình thành nhân cách người phạm tội. Người quan sát không tham gia vào quan hệ gia đình, quan hệ ở nơi sản xuất quan hệ sinh hoạt khác của người đó.

Thứ hai, quan sát bên trong. Người quan sát tham gia tổ chức cần quan sát và tiến hành quan sát từ bên trong. Trong tội phạm học, phương pháp này được sử dụng khi nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện phạm tội ở trong các tổ chức nhất định. Ví dụ: Trường học, cơ sở kinh tế, các cơ quan cải tạo (nhà tù, trường giáo dưỡng, trung tâm cái nghiện…).

Thứ ba, quan sát tham gia. Đây là loại quan sát tích cực nhất. Người quan sát không những tham gia vào tổ chức cần quan sát mà còn tích cực tham gia trực tiếp vào các hoạt động của tổ chức ấy như thành viên trong tổ chức. Loại quan sát này thường được sử dụng trọng quá trình giáo dục cải tạo người phạm tội, đánh giá kết quả các biện pháp phòng ngừa.

Ngoài ra, trong tội phạm học còn sử dụng một loại quan sát nữa đó là loại “tự quan sát”. Cán bộ nghiên cứu thu thập những tài liệu do người phạm tội tự quan sát ghi lại như nhật kí, thư từ, điện tín có thể giúp cho cán bộ nghiên cứu tội phạm hiểu rõ về nhân thân người phạm tội và nguyên nhân phạm tội của cá nhân đó.

f) Phương pháp thực nghiệm

Tội phạm học sử đụng phương pháp thực nghiệm khi nghiên cứu các biện pháp phòng ngừa nhằm đánh giá hiệu quả của nó. Chẳng hạn, áp dụng biện pháp phòng ngừa tội trộm cắp ở các cơ quan. Nếu các biện pháp có hiệu quả cao, chúng sẽ được áp dụng một cách rộng rãi phổ biến ở tất cả các cơ quan khác.

Trong việc nghiên cứu tội phạm học, tất cả các phương pháp nêu trên đều được phối hợp sử dụng với nhau nhằm thu thập được tài liệu một cách đầy đủ, toàn diện, chính xác, hạn chế được những sai lầm bảo đảm cho chúng ta thu được kết quả nghiên cứu đúng đắn, khách quan hiệu quả nhất.

2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tình hình tội phạm

Việc nghiên cứu tình hình tội phạm có ý nghĩa vô cùng to lớn. Kết quả của việc nghiên cứu tình hình tội phạm cho chúng ta cái nhìn tổng quan về tội phạm đã xảy ra. Cái nhìn tổng quan này không chỉ thể hiện đặc điểm định lượng (tổng số tội phạm cũng như tổng số người phạm tội – con số phản ánh mức độ nghiêm trọng của tội phạm đã xảy ra) mà còn thể hiện cả đặc điểm định tính (các cơ cấu bên trong của tội phạm và của người phạm tội mà những cơ cấu này phản ánh tính chất nghiêm trọng của tội phạm đã xảy ra). Bên cạnh đó, nó còn thể hiện tình trạng tĩnh của các tội phạm đã xảy ra và cả diễn biến (tăng, giảm hoặc tương đối ổn định về số lượng cũng như về tính chất) của tình trạng này.

Nghiên cứu tình hình tội phạm không chỉ dừng lại ở mô tả “bức tranh tội phạm” mà đòi hỏi còn phải phân tích “bức tranh”, so sánh các “bức tranh” với nhau để qua đó có được sự đánh giá đầy đủ và toàn diện tính nghiêm trọng của tội phạm đã xảy ra – nghiêm trọng về mức độ cũng như nghiêm trọng về tính chất.

Mô tả và phân tích “bức tranh tội phạm” trong nghiên cứu tình hình tội phạm không phải chỉ để biết những gì đã xảy ra mà quan trọng hơn là để giải thích, phát hiện nguyên nhân, để dự liệu tội phạm sẽ xảy ra như thế nào trong thời gian tới và qua đó tạo cơ sở cho việc đưa ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm.

Ý Nghĩa Và Phương Pháp Nghiên Cứu Tình Hình Tội Phạm

Nghiên cứu tình hình tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong tội phạm học. Bằng những phương pháp nghiên cứu khác nhau, cho ta thấy “bức tranh toàn cảnh” về tội phạm đã xảy ra.

Nghiên cứu tình hình tội phạm là nghiên cứu thực trạng và diễn biến của tội phạm, đó là “bức tranh” toàn cảnh về tội phạm đã xảy ra. Để có được “bức tranh” như vậy, đòi hỏi việc nghiên cứu tình hình tội phạm phải thực hiện các nội dung nghiên cứu cụ thể và cần sử dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp với các nội dung nghiên cứu cụ thể đó.

1. Ý nghĩa của nghiên cứu tình hình tội phạm

Kết quả nghiên cứu tình hình tội phạm cho chúng ta “bức tranh” toàn cảnh về tội phạm đã xảy ra. “Bức tranh” toàn cảnh này không chỉ thể hiện đặc điểm định lượng (tổng số tội phạm cũng như tổng số người phạm tội – con số phản ánh mức độ nghiêm trọng của tội phạm đã xảy ra) mà còn thể hiện cả đặc điểmđịnh tính (các cơ cấu bên trong của tội phạm và của người phạm tội mà những cơ cấu này phản ánh tính chất nghiêm trọng của tội phạm đã xảy ra). “Bức tranh” toàn cảnh về tội phạm đã xảy ra không chỉ thể hiện tình trạng tĩnh của các tội phạm đã xảy ra mà còn thể hiện cả diễn biến (tăng, giảm hoặc tương đối ổn định về số lượng cũng như về tính chất) của tình trạng này.

Nghiên cứu tình hình tội phạm không chỉ dừng lại ở mô tả “bức tranh tội phạm” mà đòi hỏi còn phải phân tích “bức tranh”, so sánh các “bức tranh” với nhau để qua đó có được sự đánh giá đầy đủ và toàn diện tính nghiêm trọng của tội phạm đã xảy ra – nghiêm trọng về mức độ cũng như nghiêm trọng về tính chất.

Mô tả và phân tích ” bức tranh tội phạm ” trong nghiên cứu tình hình tội phạm không phải chỉ để “biết” những gì đã xảy ra mà quan trọng hơn là để giải thích, phát hiện nguyên nhân, để dự liệu tội phạm sẽ xảy ra như thế nào trong thời gian tới và qua đó tạo cơ sở cho việc đưa ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm.

2. Phương pháp nghiên cứu tình hình phạm tội

Nghiên cứu tình hình tội phạm với mục đích để đánh giá, phát hiện nguyên nhân, để dự liệu tội phạm sẽ xảy ra như thế nào trong thời gian tới là dạng nghiên cứu mô tả trong nghiên cứu thực nghiệm. Đó là quá trình gồm hai bước:

-Bước thu thập dữ liệu thực tiễn phản ánh nội dung định lượng và nội dung định tính của thực trạng và diễn biến cùa tội phạm trong đơn vị không gian và thời gian xác định. Đó là dữ liệu về số lượng tội phạm và người phạm tội, dữ liệu về các cơ cấu của tội phạm mà qua đó phản ánh được tính chất của tội phạm trong thời gian tổng thể và trong từng năm. Bước này đòi hỏi phải có phương pháp tìm kiếm luận cứ thực tế.

-Bước xử lí các dữ liệu đã thu thập được để kiểm chứng các giả thuyết mô tả tình hình tội phạm và đi đến các nhận định về thực trạng và diễn biến của tội phạm được nghiên cứu. Bước này đòi hỏi phải có phương pháp tổ chức chứng minh luận điểm khoa học.

a) Về bước thứ nhất:Đây là bước quan trọng, tạo cơ sở cho bước thứ hai. Trong bước thu thập dữ liệu này, với các đòi hỏi của yêu câu mô tả thì các phương pháp tiếp cận cần phải được lựa chọn là: tiếp cận định lượng, tiếp cận tổng thể và tiếp cận bộ phận.

Để có thể tiếp cận bộ phận đúng đòi hỏi người nghiên cứu phải sử dụng đúng các phương pháp chọn mẫu. Trong đó, các phương pháp chọn mẫu thường được lựa chọn là chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản hoặc chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống.

Phương pháp thu thập dữ liệu thường được ưu tiên sử dụng trong thực tế là phương pháp phân tích thứ cấp dữ liệu. Trước hết là các dữ liệu có trong thống kê tội phạm của các cơ quan tư pháp trung ương và địa phương (công an, viện kiểm sát và toà án). Việc thu thập các dữ liệu thống kê tội phạm có sẵn này cần được tận dụng tối đa.

Tuy nhiên, các thống kê tội phạm có sẵn này đều có giới hạn mà không thể đáp ứng được tất cả các yêu cầu của người nghiên cứu. Do vậy, người nghiên cứu bên cạnh việc sử dụng dữ liệu đã có sẵn trong thống kê vẫn cần phải tự thu thập các dữ liệu khác qua việc phân tích các dữ liệu có trong các bản án hình sự. Đây cũng là dạng đặc thù của phương pháp phân tích thứ cấp dữ liệu.

Nội dung các dữ liệu thu thập theo kiểu này được người nghiên cứu đặt ra để đảm bảo phục vụ mục đích nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, người nghiên cứu không thể nghiên cứu toàn bộ các bản án thuộc phạm vi nghiên cứu của mình. Ở đây, người nghiên cứu không thể chọn cách tiếp cận tổng thể mà phải chọn cách tiếp cận bộ phận, vấn đề được đặt ra là chọn bộ phận nào? Với số lượng bao nhiêu? Người nghiên cứu không thể tuỳ tiện chọn mà phải tuân theo các nguyên tắc chọn mẫu để đảm bảo tính đại diện.

Cùng với phương pháp phân tích thứ cấp dữ liệu trên, người nghiên cứu còn có thể sử dụng một số phương pháp khác để thu thập dữ liệu như phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp phỏng vấn, phương pháp điều tra tự thuật.

b) Về bước thứ hai: Đây là bước xử lí các dữ liệu đã thu thập được. Đối với các dữ liệu dưới dạng số liệu phục vụ mô tả đặc điểm định lượng của tội phạm (thực trạng của tội phạm xét về mức độ cũng như diễn biến của tội phạm xét về mức độ) thì việc xử lí được thực hiện với phương pháp thống kê.

Đối với các dữ liệu phục vụ mô tả đặc điểm định tính của tội phạm (thực trạng của tội phạm xét về tính chất cũng như diễn biến của tội phạm xét về tính chất) thì việc xử lí được thực hiện với phương pháp logic để có được các kết luận về tính chất cũng như diễn biến về tính chất của tội phạm được nghiên cứu.

Đó là hai phương pháp xử lí dữ liệu cùng được sử dụng khi nghiên cứu tình hình tội phạm. Xử lí các dữ liệu để đi đến các nhận định về tình hình tội phạm đòi hỏi người nghiên cứu phải sử dụng các phương pháp kiểm chứng giả thuyết. Thông thường phương pháp kiểm chứng được sử dụng là phương pháp chứng minh giả thuyết.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest: