Cập nhật nội dung chi tiết về Về Chế Định Điều Tra Tội Phạm Trong Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự mới nhất trên website Cuocthitainang2010.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Nhã – Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội
1. Chế định điều tra tội phạm trong Bộ luật Tố tụng hình sự
Điều tra tội phạm là giai đoạn đầu, giữ vai trò rất quan trọng trong tố tụng hình sự (TTHS). Giai đoạn này kéo dài, rất phức tạp và có ý nghĩa chi phối cả tiến trình tố tụng. Đặt giai đoạn điều tra trong mối quan hệ với các hoạt động tố tụng khác, người viết bài này đã từng đề nghị nên chia TTHS thành 3 giai đoạn chính, theo đó xây dựng 3 đạo luật riêng biệt là: Luật Điều tra hình sự, Luật Xét xử hình sự và Luật Thi hành án hình sự. Đạo luật điều tra hình sự sẽ xác định rõ nguyên tắc điều tra, phân định thẩm quyền điều tra, quyền và nghĩa vụ điều tra của các chủ thể tiến hành điều tra, các biện pháp điều tra và biện pháp ngăn chặn… Những nội dung này hiện đang được quy định rải rác trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự.
Để đổi mới tổ chức và hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, có rất nhiều nội dung cần được bàn thảo. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin đề cập sâu ở khía cạnh tổ chức điều tra thông qua việc phân định thẩm quyền tố tụng giữa các chủ thể mà không đề cập đến các nội dung khác như biện pháp điều tra, biện pháp ngăn chặn, kiểm sát điều tra, các thời hạn trong điều tra, người bị tình nghi phạm tội, bị can, người bào chữa…
2. Nhận thức chung về Cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự
Điều tra tội phạm là hoạt động hành chính – tư pháp, do các chủ thể thuộc hệ thống hành pháp thực hiện. Đó là một loạt các cơ quan khác nhau với nhiều tên gọi khác nhau, để cho thuận tiện, người ta dùng chung khái niệm: Cơ quan điều tra (CQĐT) trong TTHS.
Cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự được quy định tại Điều 110 BLTTHS và được cụ thể hoá ở Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự. Theo đó, CQĐT được tổ chức trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân và ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đây là một phả hệ tổ chức phức tạp, xét cả về chiều dọc lẫn chiều ngang(1).
Việc phân định thẩm quyền điều tra cho từng loại, và trong mỗi loại là theo cấp điều tra lại càng phức tạp hơn. Có thể nói rằng, tính rành mạch, khoa học trong tổ chức CQĐT và phân chia thẩm quyền điều tra giữa các cơ quan này trong TTHS hiện hành còn ở mức rất tương đối.
Bàn về CQĐT trong TTHS mà không đề cập đến một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (sau đây xin được gọi tắt là: Cơ quan khác) thì thật thiếu sót. Cho tới ngày hôm nay, các nhà lập pháp vẫn chưa tìm ra một tên gọi rõ ràng, khả dĩ cho Cơ quan khác này, bởi vì, đây chỉ là một loạt các cơ quan quản lý hành chính nhà nước (dù một số không ít thuộc lực lượng vũ trang nhân dân) được giao thêm nhiệm vụ tham gia điều tra tố tụng (2).
Với đội ngũ hùng hậu các Cơ quan khác được tổ chức như hiện nay, khó có thể đưa ra kết luận: Vậy thì ai, CQĐT hay Cơ quan khác giữ vai trò chủ đạo trong điều tra hình sự nói chung và trong điều tra tố tụng hình sự nói riêng. Nhiều ý kiến cho rằng, với đội ngũ đông đảo, lại nắm hai loại quyền năng quan trọng là quyền năng quản lý hành chính nhà nước và quyền năng tố tụng hình sự nên thực tế Cơ quan khác đang giữ thế thượng phong trong phát hiện, ngăn chặn và điều tra tội phạm.
Cơ quan khác điều tra tội phạm chủ yếu thông qua hoạt động nghiệp vụ đa dạng của mình. Hoạt động nghiệp vụ nhằm phát hiện, làm rõ hành vi có dấu hiệu tội phạm xét cho cùng cũng là hoạt động điều tra hình sự. Bắt đầu từ đây đã xuất hiện hai cụm từ “điều tra hình sự” và “điều tra tố tụng hình sự”, và chúng tôi cho rằng, chừng nào, chúng ta còn chưa phân biệt rạch ròi khái niệm, ý nghĩa thực tiễn, ý nghĩa pháp lý của chúng thi mãi mãi chúng ta còn tiếp tục lúng túng tìm lối thoát cho việc quy định thẩm quyền điều tra nói chung và thẩm quyền điều tra tổ tụng hình sự nói riêng của CQĐT và Cơ quan khác trong tham gia điều tra.
Điều tra phát hiện, tìm chứng cứ buộc tội là chức năng duy nhất và riêng có của CQĐT. Cơ quan điều tra do pháp luật TTHS sinh ra, điều tra tội phạm theo pháp luật TTHS. Dĩ nhiên, để củng cố thêm các chứng cứ buộc tội, cơ quan này có thể thu thập thêm thông tin ngoài tố tụng, nhưng đó không là chửng cứ và là công việc thứ yếu của CQĐT. Vì vậy, để dễ phân biệt với các cơ quan tham gia điều tra phát hiện tội phạm, đặc biệt là các cơ quan phát hiện, ngăn chặn tội phạm bằng biện pháp nghiệp vụ, biện pháp trinh sát (tình báo), chúng tôi cho rằng, CQĐT trong TTHS chính là cơ quan chuyên trách điều tra tội phạm theo pháp luật TTHS, là CQĐT tố tụng hình sự.
Cơ quan khác cũng điều tra tội phạm theo pháp luật TTHS. Tuy nhiên, Cơ quan khác, như đã nêu, chỉ điều tra ở mức độ giới hạn, mức độ “điều tra ban đầu”. Đặc biệt, đối với nhóm Cơ quan khác trong Công an nhân dân (CAND) thì đa số họ là cơ quan trinh sát, điều tra phát hiện và ngăn chặn tội phạm chủ yểu bằng biện pháp trinh sát. Do việc điều tra theo luật TTHS đối với Cơ quan khác chỉ là thứ yếu, nên để phân biệt với cơ quan chuyên trách, Cơ quan khác nên gọi chung là: Cơ quan tham gia điều tra TTHS.
Cũng cần lưu ý thêm rằng, trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngoài hai nhóm cơ quan kể trên, còn có nhiều cơ quan quản lý hành chính nhà nước, bằng hoạt động nghiệp vụ của minh, cũng trực tiếp phát hiện, ngăn chặn tội phạm. Các cơ quan như Cảnh sát giao thông; Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy; cơ quan thanh tra; thuế… thực chất cũng không khác mấy so với đội ngũ đông đảo Cơ quan khác, vấn đề đang đặt ra là tại sao các cơ quan này lại chưa được giao tham gia điều tra tội phạm?
Phân biệt CQĐT với Cơ quan khác, bên cạnh tiêu chí chủ yếu là giới hạn thẩm quyền điều tra, còn là các yếu tố tổ chức và phân chia quyền năng tố tụng trong nội bộ cơ quan. Chẳng hạn, nếu như quyền năng tố tụng trong CQĐT được phân chia cho Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT và Điều tra viên thì ở Cơ quan khác, quyền năng tố tụng chỉ tập trung vào mỗi người đứng đầu (và cấp phó được uỷ quyền của họ).
3. Những bất cập trong tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra
Về hệ thống CQĐTtrong TTHS: Với cách bố trí thành hai loại, trong mỗi loại lại có từng hệ độc lập với nhau như hiện nay, rõ ràng CQĐT chuyên trách và cơ quan tham gia điều tra là những tập hợp đa hệ, khó có thể có sự thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo và càng khó có sự gắn kết cần thiết với nhau. Từ thực tế này, lâu nay đã có nhiều đề xuất, thậm chí là đã hình thành dự án theo hướng tập hợp các CQĐT thành một hệ thống độc lập, song song tồn tại cùng cơ quan Viện kiểm sát (VKS) và Toà án.
Tuy thấy rõ những bất cập từ cách tổ chức đa hệ của CQĐT và Cơ quan khác, song thật khó đồng tình với ý tưởng sáp nhập tất cả cơ quan điều tra trong TTHS thành một hệ thống. Điều này không phù hợp với cách thức tổ chức hệ thống dựa vào khả năng chuyên môn hoá trong lĩnh vực hành pháp. Mà cơ quan điều tra các loại, xét cho cùng lại là cơ quan hành pháp. Bên cạnh đó, ngay cả người đề ra dự án cũng chưa chứng minh được tính vượt trội hay là hiệu quả kinh tế – xã hội tối ưu do việc sáp nhập cơ quan điều tra mang lại…
Việc phân chia thẩm quyền điều tra giữa các hệ, trong cùng một hệ (cấp trên, cấp dưới) còn thiếu hợp lý, đang làm nảy sinh tình trạng chồng lấn thẩm quyền hoặc đùn đẩy nhau, tranh công, đổ lỗi. Cần lưu ý thêm là tình trạng chồng lấn thẩm quyền cũng tồn tại giữa một bên là các CQĐT, còn bên kia là cơ quan kiểm sát trong giai đoạn điều tra. Theo quy định tại Điều 112 BLTTHS thì khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, VKS có quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can, đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra, khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của BLTTHS… Những thẩm quyền này thực chất là thẩm quyền điều tra và điều này lý giải vì sao có người cho rằng điều tra và công tố thực chất là một.
Việc phân chia giai đoạn điều tra thành hai phân đoạn: Điều tra ban đầu do Cơ quan khác đảm nhiệm và Điều tra kết thúc do CQĐT đảm nhiệm cũng chưa thật hợp lý, nhiều trường hợp gây lãng phí về thời gian và nhân lực.
Chủ thể hoạt động điều tra: Theo pháp luật hiện hành bao gồm CQĐT là cơ quan tố tụng và Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT và Điều tra viên là người tiến hành tố tụng (Điều 33 BLTTHS).
Đối với chủ thể tố tụng là CQĐT, điều đáng lưu ý là quyền năng tố tụng của cơ quan này đã được phân chia cho Thủ trưởng, Phó thủ trưởng và Điều tra viên. Trong trường hợp này, hầu như quyền năng tố tụng của CQĐT đã không còn, và do vậy, việc xác định CQĐT là cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) đã trở nên hình thức.
Đối với Cơ quan khác, mặc dù cũng được giao thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra, nghĩa là cũng được giao quyền năng tố tụng hình sự, nhưng cho đến nay, Cơ quan khác và người đứng đầu của cơ quan này vẫn chưa được thừa nhận là cơ quan THTT và người THTT. Chính việc chưa thừa nhận này đã kéo theo nhiều hệ lụy mà rõ nhất là khó xác định trách nhiệm pháp lý tố tụng, trách nhiệm hình sự của những người này khi vi phạm tố tụng đến mức hình sự.
Về những người trực tiếp tham gia vào hoạt động điều tra: Hiện nay, lực lượng làm công tác điều tra có khoảng 30.000 cán bộ, trong đó có khoảng 13.000 Điều tra viên. Riêng lực lượng điều tra trong CAND có hơn 29.000 cán bộ với hơn 12.500 Điều tra viên. Bên cạnh đại đa số Điều tra viên, cán bộ điều tra tận tụy trong công tác, gương mẫu, liêm khiết, chấp hành đúng pháp luật thì vẫn còn một số không nhỏ chưa thực hiện tốt vai trò của người cán bộ điều tra tội phạm, thậm chí vi phạm pháp luật tố tụng. Tình trạng này đòi hỏi phải xem xét lại không chỉ việc phân định thẩm quyền và trách nhiệm điều tra, việc chỉ huy, chỉ đạo điều tra mà còn là tiêu chuẩn, quy trình bổ nhiệm và miễn nhiệm Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên, người đứng đầu Cơ quan khác…
4. Phương án đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự
Thứ nhất, tổ chức và hoạt động của CQĐT được thể chế hóa trong pháp luật TTHS, cụ thể hơn là ở trong BLTTHS và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự hiện hành. Việc Quốc hội đưa vào Chương trình xây dựng luật và pháp lệnh nhiệm kỳ 13 Dự án Luật Tổ chức điều tra hình sự đồng thời với việc sửa đổi, bổ sung BLTTHS đang đặt ra vấn đề là nội dung nào về chế định điều tra thì đưa vào BLTTHS, còn nội dung nào thì đưa vào Luật Tổ chức điều tra hình sự. Theo tôi, một khi đã có đạo luật riêng về điều tra tội phạm thì phương án tối ưu là tập trung tất cả những quy định về điều tra tố tụng vào đó, theo đúng mô hình đạo luật về thi hành án hình sự. Trong trường hợp đó, BLTTHS chỉ tập trung điều chỉnh hoạt động xét xử. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp: Coi xét xử là khâu trung tâm của hoạt động tư pháp.
Đương nhiên, người nêu kiến nghị này cho rằng, ý kiến về xây dựng một đạo luật riêng về điều tra hình sự dẫu hợp lý cũng khó mà được chấp nhận trong bối cảnh hiện nay. Vậy nên, tiếp theo đây, tôi sẽ trao đổi ý kiến theo hướng sửa đổi, bổ sung mô hình điều tra đã được quy định trong BLTTHS.
Thứ hai, vấn đề đầu tiên là thay đổi quan niệm và từ đó sửa đổi quy định về chủ thể điều tra tố tụng. Nếu dừng lại ở quan niệm chủ thể điều tra tố tụng là người được pháp luật giao quyền hạn và trách nhiệm cụ thể trong điều tra tội phạm thì các chủ thể này, theo tôi, chỉ nên là: Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên; người đứng đầu Cơ quan khác; Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra.
Đưa CQĐT ra ngoài danh sách chủ thể điều tra tội phạm, bởi lẽ mặc dù BLTTHS xác định cơ quan này là cơ quan tố tụng, song thực chất quyền và nghĩa vụ tố tụng dường như đã phân chia hết cho Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng và Điều tra viên, về mặt tố tụng, CQĐT chỉ còn là danh nghĩa và Thủ trưởng CQĐT chính là người đứng đầu tập thể Điều tra viên.
Tôi cũng không đồng tình khi quy định chức danh cấp phó trong BLTTHS là chủ thể độc lập, người tiến hành tố tụng, cấp phó chỉ nên là người thay mặt cấp trường và không cần thiết phải có quyền và nghĩa vụ TTHS riêng. Khi tiến hành tố tụng, cấp phó nên lấy danh nghĩa Điều tra viên.
Thứ ba, đã đến lúc cần xác định vai trò độc lập của Điều tra viên trong điều tra như Thầm phán trong xét xử và Kiểm sát viên trong hoạt động kiểm sát Có thể giao quyền và nghĩa vụ tố tụng cho Điều tra viên khi người này được giao điều tra vụ án tương đương quyền và nghĩa vụ tố tụng của Thủ trưởng CQĐT khi trực tiếp tiến hành điều tra quy định tại khoản 2 Điều 34 BLTTHS hiện hành. Theo đó, Điều tra viên khi được phân công điều tra vụ án được: Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, quyết định không khỏi tố vụ án; quyết định tách hoặc nhập vụ án; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định truy nã bị can, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, xử lý vật chứng; quyết định trưng cầu giám định, quyết định khai quật tử thi; kết luận điều tra vụ án; quyết định tạm đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ điều tra, quyết định phục hồi điều tra; trực tiếp tiến hành các biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật…
Điều tra viên chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình. Thủ trưởng CQĐT tuy có quyền phân công và thay đổi Điều tra viên, nhưng không có quyền can thiệp vào hoạt động tố tụng của Điều tra viên.
Trường hợp nhiều Điều tra viên cùng tham gia điều tra vụ án thì Thủ trưởng CQĐT chỉ định một Điều tra viên phụ trách. Điều tra viên này sẽ điều hành việc điều tra và ký các văn bản tố tụng.
- Cho phép một số cơ quan khác như Cơ quan thanh tra chuyên ngành theo Luật Thanh tra, Cảnh sát giao thông, Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy, lực lượng kiểm ngư… cũng được quyền tiến hành điều tra ban đầu những vụ việc có dấu hiệu của tội phạm thuộc lĩnh vực quản lý của mình.
- Mở rộng thẩm quyền TTHS cho một số Cơ quan khác đến mức tự tiến hành một số hoạt động điều tra và chuyển hồ sơ cho VKS để quyết định việc truy tố. Có thể đưa ra quy định là Cơ quan khác, đối với những vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng và không cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn thì được quyền tiến hành điều tra trong thời hạn không quá 30 ngày và chuyển kết luận điều tra cho VKS để quyết định việc truy tố.
- Đối với Cơ quan khác, vai trò của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra (Công tố viên) là hết sức quan trọng. Không chỉ là chỉ đạo, hướng dẫn Cơ quan khác trong hoạt động điều tra, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra còn là người điều phối, quyết định đường hướng điều tra tiếp theo. Ví dụ: Sau khi tiếp nhận kết quả điều tra và kết luận điều tra của Cơ quan khác chuyển đến, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra có quyền: Ra quyết định truy tố; trả hồ sơ cho Cơ quan khác để điều tra bổ sung; chuyển hồ sơ cho CQĐT để tiến hành điều tra theo thẩm quyền; tự mình tiến hành điều tra bổ sung; đình chỉ điều tra vụ án.
Thứ năm, đối với Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra (Công tố viên), tôi đề nghị giao quyền và nghĩa vụ tố tụng cho chủ thể này không kém hơn quyền năng tố tụng của Thủ trưởng CQĐT. Và từ đó, sẽ không cần thành lập thêm bất cứ cơ quan điều tra nào trong Viện kiểm sát. Kiểm sát viên – công tố vừa có quyền tự mình tiến hành điều tra, được sử dụng mọi thầm quyền điều tra mà pháp luật TTHS trao cho Thủ trường CQĐT và Điều tra viên. Hơn thế nữa, với tư cách là người thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Kiểm sát viên – công tố còn có quyền yêu cầu Thủ trường CQĐT, Điều tra viên, Người đứng đầu Cơ quan khác tiến hành điều tra, cung cấp chứng cứ cần thiết. Và như vậy, có thể nói Kiểm sát viên – công tố là chủ thể hàng đầu trong giai đoạn điều tra và là chủ thể điều phối, chỉ đạo điều tra.
- Cần phân biệt hoạt động công tố với hoạt động kiểm sát. Hai hoạt động này là khác nhau không chỉ về ý nghĩa tồn tại, về mục đích mà còn về chủ thể thực hiện.
- Hoạt động công tố là hoạt động độc lập, gắn với điều tra thu thập chứng cứ, nặng về hành pháp nên cũng cần được kiểm sát.
- Công tố trong điều tra phải gắn với công tố trong xét xử. Do đó, Kiểm sát viên – công tố trong giai đoạn điều tra phải là người tiếp tục giữ vai trò công tố trong giai đoạn xét xử.
- Do hoạt động công tố là đối tượng kiểm sát nên Kiểm sát viên – công tố không được tham gia hoạt động kiểm sát. Những Kiểm sát viên khác (không tham gia hoạt động công tố) sẽ tiến hành hoạt động kiểm sát, kể cả kiểm sát hành vi tố tụng của Kiểm sát viên – công tố.
- Cũng như Điều tra viên, Kiểm sát viên – công tố là một chức danh tố tụng hình sự nên họ phải độc lập chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định tố tụng của mình (khác với quy định tại khoản 2 Điều 37 BLTTHS là Kiểm sát viên chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng VKS về những hành vi và quyết định của minh).
Thứ bảy, bên cạnh việc phân định thẩm quyền tố tụng cho các chủ thể tiến hành điều tra mà thực chất là quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chức danh: Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên, người đứng đầu Cơ quan khác, Kiểm sát viên – công tố, vấn đề quan trọng không kém là phân định thẩm quyền điều tra giữa các Cơ quan điều tra khác hệ, trong cùng hệ và giữa CQĐT và Cơ quan khác, giữa các Cơ quan khác với nhau. Ngoài ra, ngay trong cùng một hệ CQĐT và Cơ quan khác, việc phân định thẩm quyền tố tụng giữa cấp trên và cấp dưới, việc chuyển giao vụ án, rút vụ án lên để điều tra… cũng còn tồn tại nhiều bất hợp lý, cần sớm được giải quyết.
Đề xuất xây dựng CQĐT với hạt nhân là Điều tra viên (mà thực chất là tương tự CQĐT dự thẩm ở một số nước) như đã nêu, nhiều vấn đề về thẩm quyền điều tra sẽ được giải quyết, về danh nghĩa, chúng ta vẫn có Cơ quan An ninh điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra thuộc Công an nhân dân, CQĐT an ninh, CQĐT hình sự trong Quân đội nhân dân. Ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao sẽ không còn CQĐT và thay vào đó, theo tôi, nên thành lập các Viện công tố thuộc VKS. Cũng như ở CQĐT, nhân vật trung tâm trong Viện công tố sẽ là các Công tố viên. Trong trường hợp này, chính Viện công tố và các Công tố viên sẽ là người điều hòa, tập trung và chỉ đạo điều tra.
Khi đã có Cơ quan công tố độc lập thuộc VKS thì các mối quan hệ tố tụng hiện nay giữa Cơ quan khác với CQĐT sẽ chuyển thành quan hệ giữa Cơ quan khác với Cơ quan công tố. Các Công tố viên sẽ cùng cộng tác, chỉ đạo và cùng chịu trách nhiệm về kết quả điều tra không chỉ với CQĐT mà cả với Cơ quan khác. Dĩ nhiên, như đã nêu, hoạt động điều tra, hoạt động điều hoà, chỉ đạo điều tra của Viện công tố và của Công tố viên cũng chịu sự kiểm sát điều tra của VKS hữu quan.
(l) Xem Điều 110 BLTTHS.
(2) Xem Điều 111 BLTTHS.
Bảo Đảm Quyền Khiếu Nại, Tố Cáo Trong Tố Tụng Hình Sự Trong Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự
Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, công dân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó.
Cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục.
Căn cứ pháp lý của việc đảm bảo quyền khiếu nại , tố cáo
Được quy định tại điều 32 trong Bộ luật Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, cá nhân có tố tụng hình sự năm 2015 như sau: quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó. Cơ quan, người có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời, đúng pháp luật; gửi văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo, cơ quan, tổ chức khiếu nại và có biện pháp khắc phục. Trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo do Bộ luật này quy định. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống người khác. “
Khiếu nại tố cáo là quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp.
Trong tố tụng hình sự, bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo là nguyên tắc cơ bản. Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, công dân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó.
Cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục.
Nguyên tắc này là một trong những biểu hiện bản chất dân chủ của tố tụng hình sự nước ta, là phương tiện bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức và cũng là một trong những hình thức phát hiện và khắc phục những sai lầm trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự.
Khiếu nại là quyền mà cá nhân, cơ quan, tổ chức, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Tố cáo là việc cá nhân báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng vi phạm pháp luật trong khi tiến hành tố tụng vi phạm pháp luật, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của mình và của người khác.
Khi có khiếu nại, tố cáo, thì cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tố cáo phải có trách nhiệm trả lời khiếu nại , tố cáo.
Thể hiện ở trách nhiệm, tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo và thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo biết, đồng thời phải áp dụng biện pháp khắc phục việc làm trái pháp luật trong tố tụng hình sự.
Thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại tố cáo được quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
Tổng Quan Nội Dung Lớn Sửa Đổi, Bổ Sung Trong Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Năm 2022
Thứ năm – 31/03/2016 09:10
I. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO SỬA ĐỔI, BỔ SUNG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Xác định mục tiêu xây dựng BLTTHS thực sự khoa học, tiến bộ và có tính khả thi cao; là công cụ pháp lý sắc bén để đấu tranh hữu hiệu với mọi tội phạm, tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn; tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân đã được Hiến định.
Thứ nhất, thể chế hóa đầy đủ các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh, chính xác, kịp thời, chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội.
Thứ hai, tăng cường hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân; cụ thể hóa các trình tự, thủ tục tố tụng, xác định đầy đủ quyền và trách nhiệm luật định, hạn chế tối đa các quy định chung chung, phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ ba, trên cơ sở tổng kết thực tiễn, BLTTHS tiếp tục kế thừa những quy định còn phù hợp, khắc phục căn bản những vướng mắc, bất cập đặt ra.
Thứ tư, khẳng định tiếp tục duy trì và phát huy những ưu điểm của mô hình tố tụng thẩm vấn; đồng thời, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những hạt nhân hợp lý của mô hình tố tụng tranh tụng, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử.
II. NHỮNG NỘI DUNG LỚN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1. Phân định mạch lạc, chính xác các giai đoạn tố tụng
Quá trình giải quyết vụ án hình sự phải trải qua nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn có những nhiệm vụ riêng với những chủ thể tương ứng; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể cũng khác nhau qua mỗi giai đoạn. Đánh dấu sự bắt đầu và kết thúc của mỗi giai đoạn là các văn bản tố tụng chuyên biệt gắn với giai đoạn đó (ví dụ: Giai đoạn khởi tố kết thúc khi có quyết định khởi tố vụ án hoặc không khởi tố vụ án; giai đoạn điều tra kết thúc khi ban hành kết luận điều tra…). Phân định chính xác, mạch lạc các giai đoạn tố tụng có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở để quy định đầy đủ quyền, nghĩa vụ, trình tự, thủ tục, thời hạn nhằm thực hiện hiệu quả mục tiêu, yêu cầu của tố tụng hình sự.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố chung trong một phần (Phần thứ Hai) và chỉ có 04 điều luật dành cho giai đoạn truy tố được đặt ở cuối cùng. Cách thiết kế cũng như số lượng điều luật như vậy chưa phù hợp với yêu cầu của một giai đoạn của tố tụng. Đồng thời, Bộ luật bố trí trình tự xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm thành 03 phần độc lập (Phần thứ Ba, Phần thứ Tư và Phần thứ Sáu). Quá trình áp dụng BLTTHS năm 2003 có ý kiến cho rằng, với kết cấu của Bộ luật như vậy có thể hiểu mỗi trình tự xét xử là một giai đoạn tố tụng. Thi hành án mặc dù được quy định là một phần trong Bộ luật nhưng luôn là vấn đề gây tranh luận trong thực tiễn áp dụng. Quá trình thi hành và sửa đổi Bộ luật, nhiều chuyên gia, nhà khoa học, nhà thực tiễn đề nghị cân nhắc có nên coi thi hành án là một giai đoạn của tố tụng hình sự hay không.
Nhằm bảo đảm tính khoa học trong phân chia các giai đoạn tố tụng, khắc phục những hạn chế trong kỹ thuật lập pháp của BLTTHS hiện hành(1), BLTTHS năm 2015 xác định tố tụng hình sự có 05 giai đoạn: Khởi tố; điều tra; truy tố; xét xử; thi hành án. Trên cơ sở đó, đã điều chỉnh khung kết cấu của BLTTHS. Thứ nhất, tách truy tố thành một phần độc lập với 02 chương quy định đầy đủ nội dung của giai đoạn tố tụng quan trọng này (Phần thứ Ba). Thứ hai, bố cục thủ tục xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm điều chỉnh chung trong một phần (Phần thứ Tư). Cách thiết kế này ngoài việc phản ánh chính xác nguyên tắc hai cấp xét xử, còn tạo cơ sở để loại bỏ những quy định trùng lắp, không nhất thiết phải quy định lặp đi lặp lại ở cả sơ thẩm và phúc thẩm. Thứ ba, tiếp tục khẳng định thi hành án là một giai đoạn của tố tụng hình sự; đây là giai đoạn quan trọng, có ý nghĩa đưa kết quả của toàn bộ quá trình tố tụng thực thi trên thực tế, do đó cần phải tiếp tục điều chỉnh (Phần thứ Năm).
2. Quy định đầy đủ, cụ thể trình tự, thủ tục và các hoạt động tố tụng trong từng giai đoạn nhằm đấu tranh có hiệu quả với tội phạm
Một trong những mục tiêu quan trọng của việc sửa đổi BLTTHS lần này là phải tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đặt ra trong thực tiễn; xác lập đầy đủ cơ sở pháp lý để quá trình phát hiện, xử lý tội phạm được tiến hành chính xác, kịp thời, góp phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển. Từ yêu cầu đó, BLTTHS năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng, cụ thể là:
Trong giai đoạn khởi tố: Trên cơ sở 10 điều của Bộ luật hiện hành, BLTTHS năm 2015 xây dựng Chương khởi tố vụ án hình sự gồm 20 điều luật với nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung. Thứ nhất, làm rõ các khái niệm “tố giác về tội phạm”, “tin báo về tội phạm”, “kiến nghị khởi tố” nhằm giải quyết những vướng mắc đặt ra trong thực tiễn (Điều 144). Thứ hai, quy định đầy đủ, cụ thể thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiếp nhận và giải quyết các nguồn tin về tội phạm nhằm xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi nhất để khuyến khích người dân tham gia đấu tranh chống tội phạm (các điều 146, 147, 151, 152). Thứ ba, điều chỉnh thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố từ 02 tháng lên 04 tháng nhằm tháo gỡ khó khăn trong thực tiễn; đồng thời, để bảo đảm chặt chẽ, Bộ luật quy định việc gia hạn phải do Viện kiểm sát quyết định nhằm tránh lạm dụng, kéo dài thời gian giải quyết (Điều 147). Thứ tư, quy định cụ thể các biện pháp được phép áp dụng trong giai đoạn này nhằm khắc phục khoảng trống của pháp luật hiện hành (Điều 147). Thứ năm, cho phép tạm đình chỉ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm khi thuộc các trường hợp luật định (Điều 148). Thứ sáu, quy định đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội ngay từ giai đoạn đầu của tố tụng (các điều 159, 160, 161).
Trong giai đoạn điều tra: Thứ nhất, bổ sung đầy đủ các biện pháp điều tra nhằm đáp ứng yêu cầu phát hiện tội phạm, như: Các biện pháp ngăn chặn, các biện pháp cưỡng chế tố tụng, biện pháp nhận biết giọng nói, định giá tài sản, các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Thứ hai, quy định chặt chẽ căn cứ và thủ tục tiến hành các biện pháp điều tra có ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của con người, của công dân, như: Biện pháp khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu (Chương XIII). Thứ ba, quy định bắt buộc phải ghi âm, ghi hình khi hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra (CQĐT) nhằm phản ánh trung thực quá trình hỏi cung, chống bức cung, nhục hình, đồng thời là căn cứ quan trọng để bảo vệ các cán bộ tư pháp đã tiến hành tố tụng đúng luật (Điều 183). Thứ tư, bổ sung và quy định đầy đủ các trường hợp tách, nhập, chuyển vụ án nhằm bảo đảm việc điều tra đúng thẩm quyền, khách quan, toàn diện (Điều 169 và Điều 170). Thứ năm, bổ sung trường hợp tạm đình chỉ điều tra khi đã hết thời hạn điều tra mà chưa có kết quả định giá tài sản, tương trợ tư pháp (Điều 229).
Trong giai đoạn truy tố: Thứ nhất, bổ sung và quy định đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng công tố và chức năng kiểm sát trong giai đoạn truy tố (Điều 236 và Điều 237). Thứ hai, quy định Viện kiểm sát cấp trên phân công cho Viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa thay cho quy định “ủy quyền” hiện nay nhằm tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn (Điều 239). Thứ ba, nhằm tăng cường kiểm tra, kiểm soát trong nội bộ, Bộ luật quy định mọi quyết định tố tụng do Viện kiểm sát cấp dưới ban hành phải gửi cho Viện kiểm sát cấp trên; Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có quyền rút, đình chỉ, hủy bỏ các quyết định này nếu thấy trái pháp luật (Điều 240). Thứ tư, bổ sung quy định cho phép nhập, tách vụ án trong giai đoạn truy tố để phù hợp với thực tiễn giải quyết (Điều 242). Thứ năm, quy định chặt chẽ các căn cứ trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung nhằm tránh lạm dụng, kéo dài thời gian giải quyết; đồng thời, quy định trường hợp Tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung mà xét thấy không cần thiết phải trả cho CQĐT thì Viện kiểm sát trực tiếp bổ sung chứng cứ để đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án (Điều 245 và Điều 246).
Trong giai đoạn xét xử: Thứ nhất, nhằm tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn, Bộ luật bổ sung quy định Tòa án yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ nhưng không nhất thiết phải trả lại hồ sơ cho Viện kiểm sát; quy định cụ thể các trường hợp Tòa án trực tiếp xác minh, bổ sung chứng cứ (Điều 252 và Điều 284). Thứ hai, quy định khi xác định vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì Tòa án trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát đã truy tố thay vì chuyển trực tiếp cho Tòa án có thẩm quyền xét xử như hiện nay (Điều 274). Thứ ba, quy định chặt chẽ sự có mặt của bị cáo, người bào chữa tại phiên tòa nhằm bảo đảm quyền bào chữa của họ, đồng thời, tránh lợi dụng làm ảnh hưởng đến kế hoạch xét xử của Tòa án (Điều 290 và Điều 291); bổ sung quy định về tạm ngừng phiên tòa với thời hạn tối đa là quá 5 ngày, thay vì mọi trường hợp phải hoãn phiên tòa với thời hạn tối đa 30 ngày như hiện nay (Điều 251). Thứ tư, sửa đổi “giới hạn xét xử” trên cơ sở nguyên tắc việc xét xử được giới hạn trong phạm vi truy tố, truy tố tới đâu – xét xử tới đó; tuy nhiên, trường hợp cần xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại, nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn (Điều 298). Thứ năm, nhằm thể hiện rõ nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Bộ luật không chia thành thủ tục xét hỏi và thủ tục tranh luận như hiện hành mà nhập chung thành thủ tục tranh tụng tại phiên tòa (từ Điều 306 đến Điều 325). Thứ sáu, quy định Tòa án sẽ không mở phiên tòa nếu có căn cứ xác định việc điều tra, truy tố trước đó vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; tuyên bố bị cáo vô tội nếu không đủ chứng cứ kết tội (các điều 280, 260, 326). Thứ bảy, để bảo đảm nguyên tắc hai cấp xét xử, Bộ luật bổ sung những người có quyền kháng cáo và điều chỉnh phạm vi kháng cáo cho phù hợp (Điều 331). Thứ tám, quy định cụ thể thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm nhằm bảo đảm tranh tụng thay vì cách dẫn chiếu sang thủ tục sơ thẩm như hiện nay; bổ sung đầy đủ thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm (các điều 355, 357, 358).
3. Thực hiện nghiêm túc yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 về tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân
Tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân là tư tưởng xuyên suốt trong Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp khẳng định nguyên tắc: Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng (Điều 14). Đây là nguyên tắc rất quan trọng, thể hiện tư tưởng pháp quyền, đề cao trách nhiệm của Nhà nước trước nhân dân, đồng thời, là cơ sở pháp lý cao nhất để mọi người và công dân bảo vệ và thực hiện quyền con người, quyền công dân của mình.
Thấu suốt tư tưởng của Hiến pháp, BLTTHS năm 2015 đã cụ thể hóa thành những quy định, yêu cầu cụ thể đối với quá trình giải quyết vụ án hình sự. Thứ nhất, quy định mọi biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự phải được quy định trong BLTTHS. Thứ hai, quy định từng biện pháp cưỡng chế tố tụng phải bị điều chỉnh chặt chẽ bởi 05 yếu tố: Căn cứ; thẩm quyền; trình tự; thủ tục; thời hạn. Thứ ba, bổ sung các quyền và cơ chế bảo đảm quyền của những người tham gia tố tụng một cách chặt chẽ, khả thi, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhất là cơ chế để bảo đảm cho người bị buộc tội nắm được các chứng cứ buộc tội nhằm thực hiện tốt việc tranh tụng. Thứ tư, bổ sung và quy định đầy đủ nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội; chừng nào chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì người bị buộc tội vẫn chưa bị coi là người phạm tội, nghiêm cấm các cơ quan tố tụng đối xử với họ như người phạm tội; trường hợp đã áp dụng đầy đủ các biện pháp cần thiết mà vẫn không đủ căn cứ để chứng minh tội phạm thì phải kết luận họ không có tội. Thứ năm, rút ngắn hợp lý thời hạn tạm giam để bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân; buộc các cơ quan tố tụng phải tính toán kỹ thời điểm bắt giam, đồng thời tổ chức lực lượng để khẩn trương kết thúc vụ án. Thứ sáu, quy định đầy đủ các cơ chế để người bị buộc tội thực hiện tốt quyền Hiến định “tự bào chữa” và “nhờ người khác bào chữa”. Thứ bảy, bổ sung các quy định để “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” được tổ chức thực thi nghiêm túc trên thực tế; tranh tụng phải trở thành quyền và nghĩa vụ của tất cả các bên; Tòa án phải thực sự khách quan, tôn trọng và lắng nghe đầy đủ các ý kiến; phán quyết của Tòa án chỉ căn cứ vào kết quả tranh tụng và các chứng cứ đã được kiểm tra công khai tại phiên tòa. Thứ tám, bổ sung và quy định cụ thể các thiết chế bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại để họ an tâm hợp tác với các cơ quan tố tụng phát hiện tội phạm. Thứ chín, sửa đổi, bổ sung các thủ tục tố tụng nhằm bảo đảm nguyên tắc “vì lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên”, phù hợp với chính sách bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em của Đảng, Nhà nước ta và các chuẩn mực quốc tế; việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên chỉ tiến hành trong trường hợp cần thiết, với mục đích chủ yếu là giáo dục, giúp đỡ các em sớm nhận ra sai lầm để tích cực sửa chữa, sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội, trở thành công dân có ích cho đất nước. Thứ mười, bổ sung các quy định nhằm đề cao trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đồng thời quy định nghiêm khắc các chế tài áp dụng nếu cơ quan tố tụng vi phạm quy định của luật.
4. Phân định hợp lý thẩm quyền giữa các cơ quan tố tụng và giữa các cấp tố tụng
Nói đến tố tụng hình sự là nói đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ giữa các cơ quan tố tụng trong quá trình đi tìm sự thật của vụ án. Yêu cầu đặt ra là phải tổ chức bộ máy, phân định nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan tố tụng và giữa các cấp tố tụng một cách khoa học, bảo đảm sự chủ động, độc lập và kiểm soát lẫn nhau. Làm được điều đó sẽ giúp cho hoạt động tố tụng hình sự vận hành thông suốt, hiệu quả, đề cao trách nhiệm, tránh sự lạm quyền. Nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp và tháo gỡ những vướng mắc qua thực tiễn thi hành, BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung theo hướng:
5. Tăng quyền, tăng trách nhiệm cho các chức danh tư pháp
Xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, bản lĩnh, trách nhiệm luôn là mong mỏi của Bác Hồ lúc sinh thời. Giao nhiệm vụ theo tư tưởng của Bác là phải dân chủ, rõ nhiệm vụ, đề cao tinh thần trách nhiệm, phát huy tính sáng tạo của cán bộ. Người nói: Khi giao trách nhiệm cho cán bộ phải làm cho họ yên tâm công tác, hứng thú trong công việc. Muốn thế, người lãnh đạo phải làm sao cho cán bộ cả gan dám nói, cả gan đề ra ý kiến, cả gan phụ trách, cả gan làm việc(2). Đây cũng chính là nội dung quan trọng trong các chỉ đạo của Đảng ta về công tác cán bộ(3). Trong lĩnh vực tư pháp, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 yêu cầu: “tăng quyền và trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình”.
Tổng kết thực tiễn hơn 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003 chỉ rõ, bên cạnh những kết quả đạt được, việc phân định thẩm quyền tố tụng còn bộc lộ một số bất cập. Theo đó, các thẩm quyền chủ yếu tập trung vào thủ trưởng các cơ quan tố tụng; những người trực tiếp tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán) có thẩm quyền rất hạn chế. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, tiến độ giải quyết vụ án, thậm chí là nguyên nhân của một số biểu hiện quan liêu, dựa dẫm, thiếu trách nhiệm trong quá trình tố tụng hình sự.
- Tăng cho Điều tra viên các thẩm quyền: Thứ nhất, yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; thứ hai, triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; thứ ba, quyết định áp giải người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ; quyết định dẫn giải người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại; thứ tư, quyết định giao người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám sát; quyết định thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; thứ năm, thi hành lệnh phong tỏa tài khoản (Điều 37).
- Tăng cho Kiểm sát viên các thẩm quyền: Thứ nhất, trực tiếp giải quyết và lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm; thứ hai, triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; thứ ba, yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; yêu cầu cử, đề nghị thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; thứ tư, bắt buộc có mặt khi CQĐT tiến hành đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, khám xét; thứ năm, yêu cầu CQĐT truy nã, đình nã bị can; thứ sáu, quyết định áp giải người bị bắt, bị can; quyết định dẫn giải người làm chứng, người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, bị hại; thứ bảy, quyết định giao người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân để giám sát; quyết định thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội (Điều 42).
- Tăng cho Thẩm phán các thẩm quyền: Thứ nhất, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện biện pháp cưỡng chế; thứ hai, quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung hoặc giám định lại, thực nghiệm điều tra; thay đổi hoặc yêu cầu thay đổi người giám định; yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu thay đổi người định giá tài sản; thứ ba, yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; thứ tư, yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; thứ năm, quyết định việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử (Điều 45).
6. Đổi mới chế định chứng cứ và chứng minh cho phù hợp với tình hình mới
Chứng cứ và chứng minh là một trong những vấn đề quan trọng nhất của tố tụng hình sự. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự thực chất là quá trình thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, mặc dù cách thức tiến hành ở mỗi giai đoạn có khác nhau. Tổng kết thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 đã chỉ ra một số hạn chế, bất cập trong các quy định hiện hành về chứng cứ làm ảnh hưởng đến yêu cầu giải quyết vụ án, nhất là chưa đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tội phạm trong tình hình mới, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm “mạng”…
Có thể nói, những sửa đổi, bổ sung nêu trên đã góp phần hoàn thiện lý luận về chứng cứ; tạo cơ sở pháp lý vững chắc để đấu tranh hiệu quả hơn với tội phạm trong thời kỳ đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại và hội nhập quốc tế sâu rộng ngày nay.
7. Hoàn thiện chế định giám định tư pháp
Tổng kết thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 chỉ ra nhiều hạn chế xung quanh chế định này. Bộ luật chỉ dành 05 điều để quy định về giám định là chưa tương xứng với tầm quan trọng và tính chất phức tạp của vấn đề. Việc thiếu quy định về thời hạn đang là một trong những nguyên nhân dẫn đến chậm trễ trong giám định hiện nay; thiếu cơ chế giải quyết xung đột trong trường hợp có nhiều kết luận khác nhau về cùng một đối tượng trưng cầu, làm bó tay các cơ quan tố tụng…
Những sửa đổi, bổ sung nêu trên sẽ tháo gỡ căn bản những vướng mắc trong công tác giám định. Đồng thời, đặt ra trách nhiệm cao hơn cho cơ quan tố tụng và cơ quan giám định phải phối hợp chặt chẽ nhằm bảo đảm nguyên tắc kịp thời, chính xác, tiết kiệm trong tố tụng hình sự.
8. Luật hóa các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
Ở Việt Nam, biện pháp điều tra đặc biệt (biện pháp nghiệp vụ) mới chỉ được đề cập có tính nguyên tắc trong các luật chuyên ngành (Luật An ninh quốc gia, Điều 24; Luật Phòng, chống ma túy (Điều 13) và giao cho Chính phủ quy định cụ thể. Do BLTTHS chưa quy định biện pháp điều tra đặc biệt nên chưa phát huy cao hiệu quả của các biện pháp này, nhiều trường hợp lãng phí nguồn chứng cứ quan trọng có ý nghĩa trực tiếp chứng minh tội phạm. Trên thực tế, các Điều tra viên một mặt phải đối diện với những rủi ro trong quá trình đấu tranh chống tội phạm, nhưng đồng thời cũng gặp không ít khó khăn trong việc chuyển hóa chứng cứ để được pháp luật công nhận. Đặc biệt, trước yêu cầu của Hiến pháp năm 2013: Mọi biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân phải do luật định đã đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu và xử lý nghiêm túc, thấu đáo vấn đề này.
Trên cơ sở cân nhắc các điều kiện cụ thể của nước ta về mọi mặt, bảo đảm phù hợp với Hiến pháp, các cam kết quốc tế của Việt Nam và tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung một chương mới để luật hóa biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Thứ nhất, các biện pháp được phép áp dụng bao gồm: Ghi âm, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử (Điều 223). Thứ hai, quy định chặt chẽ các trường hợp áp dụng chỉ đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền.
Phương Pháp Nghiên Cứu Hồ Sơ Vụ Án Hình Sự Và Áp Dụng Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự
Điều gì khiến bạn hài lòng khi chọn mua sách
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU HỒ SƠ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ ÁP DỤNG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2015
Nội dung chính xác.
Chất lượng bản in đảm bảo.
Giá thành hợp lý.
Sẽ ra sao nếu bạn sử dụng sách không đảm bảo chất lượng?
Bạn không có được cái nhìn chính xác về
Bạn sở hữu quyển sách có chất lượng không đảm bảo từ giấy, mực in cho đến bìa sách.
Nội dung bạn nắm không đáp ứng được yêu cầu tìm hiểu và nghiên cứu của bạn.
Để không lặp lại những tình huống nêu trên các bạn có thể chọn bộ tài liệuPHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU HỒ SƠ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ ÁP DỤNG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2015 để có được những thông tin hữu ích cho mình
Nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự trong giai đoạn xét xử của Tòa án là một hoạt động thường xuyên và quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự của Thẩm phán, Hội thẩm.Thực tiễn cho thấy chất lượng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự có ảnh hưởng nhất định đến chất lượng giải quyết vụ án hình sự.Theo đó nếu việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự của Thẩm phán, Hội thẩm được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ và khoa học thì sẽ nâng cao được chất lượng giải quyết vụ án, ngược lại nếu việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự được thực hiện qua loa, sơ sài thì chất lượng giải quyết vụ án không cao, có thể dẫn đến làm gia tăng tỷ lệ án bị hủy, sửa hoặc nghiêm trọng hơn là làm oan sai người vô tội.Chất lượng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự phụ thuộc nhiều vào kỹ năng, phương pháp nghiên cứu hồ sơ của Thẩm phán, Hội thẩm, theo đó nếu người nghiên cứu có kỹ năng nghiên cứu tốt và phương pháp nghiên cứu chuyên sâu thì chất lượng nghiên cứu sẽ được nâng cao.
Bên cạnh đó công tác áp dụng pháp luật hình sự nói chung và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự nói riêng cũng có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự.
Do đó việc nâng cao chất lượng nghiên cứu hồ hồ sơ vụ án hình sự cũng như áp dụng đúng và chính xác pháp luật về hình sự nói chung, Bộ luật tố tụng hình sự nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình sự.
Nhằm giáp bạn đọc nói chung, những người làm công tác xét xử nói riêng, nâng cao được kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự cũng như nâng cao được chất lượng công tác giải quyết vụ án hình sự, Nhà xuất bản Lao Động xuất bản cuốn sách
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU HỒ SƠ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ ÁP DỤNG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2015
(Biên soạn theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và văn bản mới nhất) ” do Luật gia Nguyễn Ngọc Điệp là người có nhiều năm kinh nghiệm trong công tác xét xử án hình sự biên soạn.
Nội dung cuốn sách gồm những phần chính sau đây:
Phần II. BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 (CÓ HIỆU LỰC THI HÀNH TỪ NGÀY 01-07-2016).
Phần III. CÁC VĂN BẢN HƯỚNG DẪN THI HÀNH BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2003 (CÒN HIỆU LỰC THI HÀNH).
Phần IV. CÁC VĂN BẢN VỀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP.
Hy vọng cuốn sách sẽ có giá trị hữu ích đối với bạn đọc.
Sách đẹp, khổ 20*28 cm, dày 584 trang, Giá: 470.000đ. Nộp lưu chiểu quý II/ 2016.
Sách là nguồn kiến thức vô tận
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU HỒ SƠ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ ÁP DỤNG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2015
TRUNG TÂM SÁCH LUẬT VIỆT
Bạn đang đọc nội dung bài viết Về Chế Định Điều Tra Tội Phạm Trong Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự trên website Cuocthitainang2010.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!